Kính thưa thầy, hôm trước con có hỏi về cái thường biết của vị ngoại đạo trả lời đức Phật khi đức Phật hỏi thầy ngươi dạy gì. Có gì khác biệt giữa cái thường biết đó với cái “liễu liễu thường tri” cuả ngài Huệ Khả không a?
Con cảm ơn thầy
Tất nhiên là khác. Cái thường biết của người ngoại đạo là nỗ lực giữ tướng biết (ý thức) liên tục (tích cực miên mật). Điều này không thể được, vì ý thức luôn sinh diệt theo đối tượng, nên thậm chí còn trở ngại cho chánh niệm tỉnh giác (xem 10 trở ngại cho thiền Vipassanā).
Còn “liễu liễu thường tri” là tánh biết không sinh diệt của Tâm Chói Sáng (Pabhassaracitta) mà đức Phật dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh. Do đó phải kiến tánh mới liễu liễu thường tri được. (Đó cũng chính là cốt lõi của thiền Vipassanā mà những hành giả còn quán niệm bằng ý thức không thể nào hiểu nổi).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Sư,
Con có thắc mắc xin sư chỉ giúp con ạ.
1. Con có đọc và biết được 2 ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên chứng sơ quả ngay khi nghe ngài A-Xa-Chí đọc lên bài kệ nhân duyên. Rồi sau đó gặp đức Phật lại trực tiếp dạy cho ngài Mục Kiền Liên tu thiền định, sau 14 ngày thì đắc Alahan với thần thông đệ nhất. Vậy thì thiền định lúc này có tác dụng gì đối với một vị thánh sơ quả? Trong khi sư dạy là thiền định gây trở ngại cho mình thấy ra sự thật.
2. Nếu không qua thiền định thì mình có thấy được tiến trình sanh diệt của thân và tâm trong từng sát na để thấy ra không có gì là tôi cả. Có thấy được tuệ nhân duyên (nhân quả các kiếp trước, kiếp này), từ đó thấy được tam tướng và buông xuống bản ngã của mình.
Con xin chân thành cảm ơn Sư.
1) Đây là chỗ hiểu lầm nghiêm trọng về Chánh Định và Định ngoại đạo hay Định Hữu sắc, Vô sắc giới. Đức Phật dạy Chánh Định chứ không hề dạy lại tứ thiền bát định của ngoại đạo mà Ngài đã từ bỏ trước khi Giác Ngộ. Và hai cách hành hoàn toàn khác nhau, nếu lạc vào tứ thiền bát định ngoại đạo chắc chắn trở ngại cho sự giác ngộ, như đã nêu trong 10 phiền não của thiền Vipassanā.
2) Một vị đã chứng Sơ Quả đương nhiên có Chánh Định, vì dù vị ấy không hành tứ thiền bát định hữu sắc, vô sắc của ngoại đạo khi hành Vipassanā vẫn có đầy đủ Giới-Định-Tuệ. Cho rằng hành Vipassanā không có định là sai lầm lớn, nhưng đó là chánh định chứ không phải định hữu sắc vô sắc mà đức Phật đã từ bỏ trước khi giác ngộ hoàn toàn.
Tội lớn nhất của người sau là đồng hoá tứ thiền bát định của ngoại đạo với Chánh Định mà đức Phật chỉ dạy, khiến chỉ lên được cõi Sắc, Vô sắc giới mà không thể giác ngộ giải thoát được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính đảnh lễ Thầy.
Thưa thầy,
Khi 1 người đã trở về với tự tánh, tự soi chiếu, thì không thể hành thiền định phải không thầy (hết ảo tưởng)? Lúc trước, khi con khởi tâm thiền định thử cho biết và hành tập trrung vào 1 đề mục, tự nhiên tánh biết thấy rõ đó vẫn là chiêu trò của bản ngã, và lại trở về với tâm rỗng lặng vậy. Con thấy rõ ràng là 2 con đường trái ngược nhau. Một là con đường giải thoát. Một là con đường trói buộc dính mắc. Khi nhận ra được con đường ảo tưởng kia thì sẽ tự bỏ chứ không thể theo con đường đó được. Con chỉ thắc mắc người tu thiền định hay không tu thiền định, khi thấy ra cái thực thì sẽ không thể tu thiền định đúng không thầy? Làm sao có thể “tu cho biết” và vẫn dưới sự soi sáng được chứ? Nếu thế thì vẫn là dính mắc chứ làm sao nói, “… cứ tu thiền định đi mà đừng dính mắc là được”! Trừ khi hiểu theo ý khai thị là lúc đầu căn cơ trình độ như thế thì cứ tu đi, đừng dính chấp gì vào đó hết (như một lời nhắc nhở).
Nếu có hiểu lầm qua ngôn từ nào, xin Thầy từ bi chỉ dạy bỏ qua cho con.
Con cám ơn Thầy!
Con hiểu rất đúng. Trong thiền soi sáng đã đầy đủ giới định tuệ, mà định này vô cùng vi diệu nên không cần hành thêm tứ thiền bát định trong tam giới của ngoại đạo (Bồ-tát Siddhattha đã từ bỏ trước khi giác ngộ).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ, con kính chào Thầy!
Con xin hỏi:
1. Vipassana là thiền của Đức Phật, thiền này mới giải thoát Niết-bàn. Vậy sao trong Kinh lúc Phật Niết-bàn có đoạn:
“… rồi Ngài lại từ định Sơ thiền ra để vào định Nhị thiền, từ định Nhị thiền ra để vào định Tam thiền, từ định Tam thiền ra để vào đinh Tứ thiền, từ định Tứ thiền ra, Đức Phật nhập Niết-bàn.”
Đây là thuộc về thiền định thì đâu có giải thoát Niết-bàn được, Phật vào ra các tầng thiền như vậy để làm gì?
2. Khi thành Phật rồi, sao Phật vẫn còn ngồi thiền và đó là thiền gì?
Con cảm ơn Thầy nhiều lắm!
Điều này chính Thầy cũng thấy mâu thuẫn, bởi vì trước đó Bồ-tát đã từ bỏ thiền định rồi, sau đó cũng từ bỏ luôn khổ hạnh – hai pháp tu cao nhất của ngoại đạo – sao lại dùng thiền định để đắc Đạo? Hay là do trải qua cả ngàn năm Kinh điển mới được biên tập lại và chép ra bởi một người có nguồn gốc Bà-la-môn nên có thêm thắt để đề cao thiền định của họ không? Xem Kinh Đoạn Giảm thì chính đức Phật xác định thiền định hữu sắc, vô sắc đối với giáo pháp bậc Thánh chỉ là “hiện tại lạc trú” và “không trú” thôi, không phải đúng hướng của hạnh đoạn giảm là “xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, chánh trí giác ngộ Niết-bàn”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy ! Xin Thầy hoan hỷ giải thích để con được biết: Sao hình Phật Thích Ca chùa Bắc tông có chữ vạn trước ngực, Phật Thích Ca chùa Nam tông không có chữ vạn. Cám ơn Thầy.
Chữ vạn mang tính biểu tượng hơn là sự thật, cũng giống như đức Phật ngồi trên hoa sen hoặc vầng hào quang trên đầu. Và biểu tượng này cũng như chấm đỏ giữa ấn đường đã có trước trong văn hoá của người Ấn Độ, người sau gán vào cho đức Phật để ngoại đạo khỏi chê Phật không có những dấu hiệu mà họ cho là cao quý.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Thầy,
1. Con thấy cái biết, khi cần thì activate nó, khi không thì nó ở đó nhưng biến dạng. Thưa Thầy đó phải là “tướng biết”?
2. Có khi con thiền, con trải nghiệm được một sự im lặng tuyệt đối, không gian và thời gian đứng yên, bao nhiêu cảm giác vibrations trong người lắng xuống, chỉ còn cái biết. Thưa Thầy đó là trạng thái định không?
Từ hơn 10 năm nay, lâu lâu con trải nghiệm như vậy.
Con xin cám ơn Thầy chỉ dẫn
1) Phải, tất cả tâm tuỳ duyên mà sinh rồi biến đổi hay hoại diệt đều là tướng biết.
2) Phải, đó mới là chánh định, tâm định tự nhiên trước mọi sự vật mà không do nỗ lực tập trung để đạt được trạng thái định hữu vi hữu ngã như thiền định ngoại đạo.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ Thầy. Con từng tìm hiểu về Thiền tông và có thực hành ngồi thiền quan sát hơi thở. Con còn đi làm và chịu nhiều chi phối ở cuộc sống nên con ngồi thiền không được liên tục. Một hôm con có ra tiệm internet đọc báo và bị cuốn vào các trang báo và mấy trò chơi trên internet, con say mê ngồi chơi cả ngày, lúc ra về thấy người mệt, đầu óc do chú ý quá nhiều vào trò chơi nên thấy tâm trí nó cũng mệt. Tối đó con có ngồi thiền mà lạ lùng thay con ngồi rất dễ dàng, cái an lành xuất hiện, rồi con thấy thân con nó có nổ lộp độp ngoài da, tiếp theo thân con nó đung đưa hơi nhẹ qua lại và nó trống rỗng như bên trong chứa nước vậy, không thấy có hơi thở ra vào mặc dù con vẫn biết con đang thở. Do mới gặp lần đầu nên con hơi bất ngờ, con quan sát nó được một hồi, rồi tâm con khởi lên suy nghĩ hít thở vào, có một chút khởi tâm v.v… rồi cảm thọ này nó hết, rồi con xả thiền, mấy ngày sau khi được cái trạng thái đó tâm con thấy có hoan hỉ, và cơ khớp người con như dẻo ra vậy. Kính xin thầy chỉ bảo giúp con đó là trạng thái gì và nó có lợi hay hại cho quá trình tu tập của con. Con xin cảm ơn Thầy!
Đó là trạng thái hỷ (pīti) trong thiền định. Con đã vô tình vào định khá sâu khi không còn thấy có hơi thở. Do sau khi mệt mỏi con đã ngồi buông thư, vô tâm trong khi cảm nhận sự thở vô ra tự nhiên – không chủ tâm cố thiền theo định hướng như trước đây – nên đã vào định dễ dàng. Định như thế mới đúng định Phật giáo (vô vi vô ngã), ngược lại cố định tâm như trước đây của con theo kiểu tứ thiền bát định của ngoại đạo lại không tốt.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy!
Con có một băn khoăn ở trong Tâm. Con mong được thầy chỉ dạy để con có thể vượt qua được chướng ngại này trên con đường thực hành Chánh Pháp của đức Phật.
Lúc con mới bước chân vào đạo, con có thực tập Pháp của một vị thiền sư khá nổi tiếng. Nhưng con chưa quy y với vị đó. Con cũng có giao lưu với những người đệ tử của vị thiền sư đó, nhưng chỉ ở mức như là những người bạn đạo. Sau một thời gian, càng nghiên cứu sâu vào phương pháp thực tập của vị thiền sư đó, con càng cảm thấy nó đi lạc vào phương pháp của ngoại đạo, dưới vẻ bề ngoài là Chánh Pháp của đức Phật. Con mới rời bỏ phương pháp thực tập đó, rời bỏ những người bạn đạo đó để thực hành Pháp mà con cho là nó đúng với Chánh Pháp của đức Phật hơn. Nhưng sau khi con rời đi, thì biết tin vị thiền sư đó lâm vào một biến cố lớn. Điều này khiến cho cả tăng đoàn dưới sự dẫn dắt của vị thiền sư đó lâm vào những tình cảnh khó khăn. Những đệ tử của vị thiền sư đó mong muốn thực hiện tâm nguyện của thầy nên họ lên kế hoạch cho một dự án rất lớn. Điều này cũng khiến cho họ bị lâm vào tình cảnh khó khăn. Họ kêu gọi con dưới hình thức ám thị, ám chỉ, không trực tiếp nói chuyện rõ ràng với con nhằm mục đích lôi kéo con vào kế hoạch của họ. Con cũng chỉ ám thị với họ việc con không đồng ý. Vì điều đó khiến con phải hy sinh cuộc sống riêng tư và phương pháp thực hành Chánh Pháp của con. Con phải chi trả rất nhiều tiền cho cái kế hoạch được gọi là “nhân văn” đó. Họ biết con không đồng ý và nói con là một kẻ Vô Ơn Bạc Nghĩa. Một kẻ phản thầy, không tôn sư trọng đạo cũng chỉ dưới hình thức ám thị cho con biết.
Con nói với họ, con không phản thầy vì con chưa từng quy y với vị thiền sư đó. Mà cho dù con có quy y đi chăng nữa, nếu con thấy con đường mà con đi không đúng chánh pháp thì con cũng rời bỏ vị thầy đó. Nhưng họ không để con yên, họ liên tục làm phiền cuộc sống riêng tư của con. Lôi kéo con bằng mọi hình thức, kể cả không ngại việc khủng bố tinh thần con. Làm cản trở công việc của con. Con như đang sống trong tình cảnh bị giám sát, quy chụp, chỉ trích 24/24h. Chỉ với mục đích lôi kéo cho bằng được con tham gia vào kế hoạch của họ. Phải hy sinh để thực hiện mong muốn mà họ cho là “cao đẹp”.
Bạch thầy! Trong tình huống này, con có phải là một kẻ Vô Ơn Bạc Nghĩa như họ nói con không? Con phải làm gì để họ trả lại cuộc sống yên bình, riêng tư cho con. Con mong thầy cho con lời chỉ dạy cho tình huống này.
Con xin tri ân thầy!
Bỏ tà pháp để theo chánh pháp là điều chánh đáng, không phải vô ơn bạc nghĩa, và một nhóm người mê tín cố chấp như vậy lại càng cần lánh xa để trả lại bình yên cho chính mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch sư ông, con có một vấn đề thắc mắc trong thực hành tu tập mong sư ông giải đáp.
Thời con còn rất trẻ, một lần vô tình cảm nhận được hơi thở của mặt đất, hồi đó con chưa biết đạo Phật, ko biết thế nào là thiền, trạng thái đó rất đặc biệt và qua đã hơn 20 năm nhưng con vẫn nhớ rõ. Sau này con biết đến 1 số thí nghiệm về ý thức (https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/vat-chat-va-y-thuc-la-mot-the-thong-nhat.html?fbclid=IwAR0hOaPTF99CrEp-4HyeTAp31Ikl6aMD5hiI1Eloy_fQ1sgMMQWj7KadVhU).
Con tin rằng vạn pháp có thức, và cảm nhận hơi thở mặt đất đồng điệu với hơi thở bản thân hồi trẻ đó là may mắn giao tiếp với thức của đại địa. Tuy nhiên khi biết về thiền thì ngược lại yêu cầu phải hướng tâm vào trong quan sát thân, thọ, tâm, pháp của mình. Tại sao tam minh, lục thông lại ngược lại, đều hướng tâm ra ngoài thâm nhập vào 4 tính chất thời gian (nhìn thấy kiếp trước), không gian (xuất hiện địa điểm khác nhau), vật chất (đi xuyên qua), ý thức (tha tâm thông)? Tại sao tu đi một đường mà thành quả lại ngược lại, vấn đề nó không khớp với thuyết nhân quả. Con không biết đi cách nào thì đúng: mở tâm quán cảm nhận vạn vật hay thu thúc tâm quan sát bản thân?
Rất mong sư ông giải đáp nghi vẫn cho con. Con xin chân thành cảm ơn.
Bởi vì chủ yếu đạo Phật giúp chúng ta thấy ra Bốn Sự Thật, trong đó Diệt Đế hay Niết-bàn (Chân lý rốt ráo nhất của vũ trụ vạn vật) đã có sẵn nhưng bị che lấp bởi Tập Đế và Khổ Đế (tạo ra bởi cái ngã ảo tưởng) nên không giác ngộ được Niêt-bàn.
Vậy quay lại soi sáng thân thọ tâm pháp để phát hiện và loại bỏ cái ngã ảo tưởng thì ngay đó “thập phương thế giới hiện toàn chân”, chứ không phải cái ngã ảo tưởng đi tìm kiếm sở tri, sở đắc lục thông một cách vụn vặt như thế. Đó chính là sự khác biệt hướng đi của ngoại đạo mà đức Phật gọi là “đặt sai hướng”.