Kính thưa thầy,
Con có nhân duyên được nghe và đọc tụng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Qua sự cảm nhận của con thì đức Phật đã từ bi chỉ dẫn con đường trở về Diệu Tâm thông qua tánh nghe, tánh thấy, tánh biết. Con đường tu tập nhân lại chứ không qua pháp môn, có phần giống như pháp tu mà thầy đang hướng dẫn chúng con. Nhưng con cũng có nghe kinh Thủ Lăng Nghiêm là kinh phát triển, không thuộc kinh Nguyên Thủy và có một số nhà sư thuộc hệ phái Nguyên Thủy không chấp nhận kinh Thủ Lăng Nghiêm, cho là kinh ngoại đạo không phải do đức Phật thuyết. Nay con xin thầy từ bi khai thị cho con hiểu thêm cách nhìn của thầy về bộ kinh này và giúp con hiểu do điểm vi tế nào mà nhiều người lại cho kinh Thủ Lăng Nghiêm không do Phật thuyết ạ? Con xin cảm tạ thầy.
Trước hết thầy đính chính là những điều thầy thuyết không xuất phát từ Kinh Lăng Nghiêm mà do thầy tự khám phá phát hiện và hoàn toàn phù hợp với Kinh Nguyên Thủy. Trong Kinh Tăng Chi 1.10 đức Phật dạy rằng tâm vốn trong sáng (pabhassara citta) nhưng kẻ phàm phu không biết tâm này nên để cho cấu uế từ ngoài vào làm cho ô nhiễm, bậc thánh trí biết được tâm này nên không để cấu uế từ ngoài vào làm cho ô nhiễm. Trong Kinh Tiểu Bộ đức Phật cũng dạy rằng vì có cái không sinh, không hữu, không tác, không thành nên mới có thể thoát được sinh, hữu, tác, thành. Do đó một vị giác ngộ mới trở về với tâm vô sinh ấy mà được gọi là bậc Alahán. Hơn nữa, căn bản lời dạy của chư Phật là: “Không làm các điều ác, làm các điều lành và giữ tâm thanh tịnh”. Tâm thanh tịnh này không do ai tác thành mà chính là cái tâm vô sinh, vô ngã và chiếu sáng (pabhassara citta) đó. Như vậy, tu tập có nghĩa là xả ly cấu uế từ ngoài vào thì tâm sẽ tự chiếu sáng như bầu trời không mây thì mặt trời tự chiếu sáng, chứ không phải do bản ngã hữu vi tạo tác ra một Thánh tâm nào khác.
Thầy đọc Kinh Lăng Nghiêm từ hồi nhỏ nên bây giờ còn không nhớ chi tiết kinh ấy nói gì, chỉ nhớ đại khái là kinh ấy luận về Tâm mà thôi. Kinh này có thể có trước hoặc cùng thời với Phật Giáo Đại Thừa, viết bằng tiếng Sanskrit, mà Sanskrit có sau tiếng Pāli của đức Phật hơn 200 năm (theo nghiên cứu khảo cổ của cuốn Pāli is the Mother of Sanskrit), như vậy kinh này được một vị Tổ nào đó biên soạn vào khoảng 200 đến 600 năm sau Phật lịch. Tất nhiên Lăng Nghiêm không phải là do Phật thuyết mà do vị Tổ ẩn danh nào đó biên soạn, nhưng cũng không phải là của ngoại đạo như một số vị nghĩ, vì nội dung vẫn có nhiều điều đáng học hỏi chiêm nghiệm. Có điều do nhiều người hiểu lầm Chân Tâm Diệu Tánh nói trong kinh Lăng Nghiêm là “cái tâm thường hằng bất biến của ta” nên rơi vào 2 tà kiến là Ngã Kiến và Thường Kiến trong khi cái Tâm Chiếu Sáng Pabhassara Citta mà đức Phật dạy là không sinh, không hữu, không tác, không thành nên là vô vi, vô ngã, không thường, không đoạn. Có lẽ do hiểu Chân Tâm thành thường kiến, ngã kiến như vậy nên mới bị xem là ngoại đạo. Tất cả kinh nguyên thủy hay phát triển đúng đắn đều nói về chân lý vốn sẵn nơi mỗi người nên tốt nhất là khi đã hiểu ý kinh thì mỗi người nên tự khám phá sự thật nơi chính mình hơn là y cứ vào kinh luận (như đức Phật đã cảnh báo người xứ Kalama).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, không biết Chùa có Kinh Tiểu Bộ và những bộ Kinh khác trong hệ thống Phật Giáo Nguyên Thủy để dành cho chư Phật tử gần xa được thỉnh không? Con cảm ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Kinh Bộ Nikāya chỉ có phát hành tại phòng phát hành Học Viện và Viện Nghiên Cứu Phật Học VN tại 750 Nguyễn Kiệm, Phường 4, Quận Phú Nhuận.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Theo con được biết thời còn Đức Phật chỉ có Kinh và Luật, còn Luận thì sau khi Phật nhập Niết Bàn mấy trăm năm mới có. Nhưng trong bài giảng ngày 6 ở Sydney Thầy có lấy ví dụ hồi còn Đức Phật, có một vị thông thuộc hết Tam Tạng (tức là Kinh, Luật, Luận) nhưng không biết gì về thực chứng hết. Con bị confuse chỗ này. Kính mong Thầy giảng cho con.
Xem câu trả lời
Con nói đúng, lúc Phật còn tại thế có lẽ chỉ có Kinh – Luật (Dhamma – Vinaya) thôi, nhưng có truyền thuyết cho rằng Phật có thuyết thêm Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) nên gọi là Tam Tạng gồm Kinh (Sutta), Luật (Vinaya) và Diệu Pháp (Abhidhamma). Nếu đúng như vậy thì thời Đức Phật vẫn có Tam Tạng nhưng không phải là Luận mà là Vi Diệu Pháp. Tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng bộ Abhidhamma cũng được biên soạn về sau nên vẫn xem là Luận Tạng. Khi thầy nói Tam Tạng là nói theo cách thường nói cho dễ hiểu thôi, nhưng tốt nhất nên hiểu đó là những gì Phật dạy mới đúng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, trước hết con xin được đảnh lễ Thầy.
Đã lâu rồi, dù không có vấn đề gì về tu học nhưng con vẫn thường nghe Pháp thoại của Thầy và lên mục Hỏi đáp này để học hỏi thêm những lời giải đáp của Thầy cho các thắc mắc của các đạo hữu.
Hôm nay con xin hỏi Thầy:
1. Anh và chị của con bị bệnh ung thư. Trong cuốn Hương Vị Pháp Bảo của thiền sư Silananda có nói rằng, khi gia đình có người bị bệnh thì thỉnh chư Tăng đến nhà đọc tụng bài Kinh Thất Giác Chi thì có thể thuyên giảm bệnh. Nếu con muốn học bài Kinh này thì con tìm ở đâu?
2. Theo như thông báo trên trang nhà Hộ Tông thì Thầy sẽ qua Úc châu hoằng pháp trong khoảng thời gian từ 25/10 đến 25/11/2013 có phải không Thầy? Con định về Việt Nam thăm Thầy, quý Sư và quý Cô cuối năm nay. Nhưng nếu Thầy qua Úc thì con sẽ đổi lại sang năm mới đi.
Con cám ơn Thầy và kính chúc Thầy thân tâm an lạc và mọi Phật sự luôn viên mãn.
1) Kinh Thất Giác Chi, nếu thầy nhớ không lầm thì có trong cuốn Kinh Dành Cho Người Bệnh của Sư Hộ Pháp, ở phòng phát hành chùa Bửu Long có cho thỉnh. Hoặc con có thể vào đây để đọc:
http://www.budsas.org/uni/u-hophap/benh00.htm
2) Đúng là thầy sẽ đi Úc vào thời gian đó, và giảng ở Sydney vào tuần đầu tháng 11. Điện thoại liên lạc chỗ giảng là: +61 416 177 568.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy!
Khi đọc bộ sách Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh) con rất tâm đắc. Trong sách có những câu chuyện và những lời dạy của Đức Phật rất hay, rất dễ nhớ. Con rất muốn mua bộ sách này để dành tham khảo nhưng con tìm ở nhiều nhà sách rồi mà vẫn không thấy. Thầy có biết nơi nào con có thể tìm mua được không? Xin Thầy chỉ giúp giùm con.
Con xin chân thành cảm ơn Thầy!
Xem câu trả lời
Con thử tìm ở nhà sách Văn Thành hoặc nhà sách Trí Tuệ ở Thành Phố HCM, nếu không có lên Phòng phát hành cuar chùa Bửu Long Quận 9 xem sao.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy kính! Hôm nay con có vấn đề này xin thầy chỉ dạy! Khi mới tìm hiểu đạo Phật, con có đọc “Tâm Kinh Bát–nhã ba–la–mật– đa“. Lúc đó con chẳng hiểu gì cả, thấy vừa mơ hồ, vừa thú vị muốn tìm hiểu và ấn tượng nhất cái câu “Độ nhất thiết khổ ách!” mà con bắt đầu tìm hiểu về Tâm Kinh .
1/ Đầu tiên: Có cô Phật tử bảo với con rằng: ”đọc tụng kinh này nhiều lần, sẽ được nhiều phước đức, mọi việc thi cử sẽ dễ dàng (lúc đó con đang là sinh viên năm 2), tai qua nạn khỏi!“ trong lòng con thấy sao nó mơ hồ và “mê tín” quá! Con hỏi cô Phật tử này: ”Cô có hiểu về Tâm Kinh muốn dạy gì không?” Cô trả lời: ”Bồ tát Quan Thế Âm thực hành theo Tâm Kinh này mới thành tựu, Còn mình người trần mắt thịt làm sao hiểu hết được! Đạo Phật cao siêu lắm, cố gắng tu được bao nhiêu thì tu!” Con thấy cô nói có lý, và câu “Độ nhất thiết khổ ách” lúc này được con hiểu là: Tụng kinh này nhiều sẽ được Bồ Tát Quan Thế Âm phù hộ vượt qua mọi đau khổ, tai ách vì đây là “Thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư.”
2/ Một thời gian sau, Con có duyên đọc được những bài viết giải thích về Tâm Kinh trên mạng, con đã có những hiểu biết (sở tri) chút ít, tuy vậy vẫn thấy rất “lơ mơ” khi nhắc tới câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc”! Mơ hồ về cái được gọi là “Tánh Không”! Bằng sở học, con cố dùng tri thức và lý luận để giải thích và cố tạo cho mình một cách hiểu: Tất cả các vật chất trên cuộc đời này đều do những phân tử, nguyên tử kết hợp lại với nhau nên thành có, Không ở đây là khoảng không giữa các phân tử, nguyên tử chứ không phải không có vật thể đó! Thân người cũng từ tứ đại hợp thành, khi hết duyên thì tan rã! Về mặt “Tâm” thì do “Thọ tưởng hành thức” kết hợp lại mà thành và giữa “Thọ Tưởng Hành thức” nó cũng có cái khoảng không? Vậy không là khoảng không và “bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm“! Nhưng “Thọ Tưởng hành thức diệc phục như thị” tức là: “Thọ Tưởng hành thức “bất dị không, không bất dị “Thọ Tưởng Hành Thức”, nếu lý luận như trên thì cái khoảng không của Thọ là gì? Của Tưởng, hành, thức là gì?! Thật là khó hiểu, đau đầu, phiền não! Còn lý luận, còn suy tư, càng thấy rối rắm, và mệt mỏi! Nên thôi không quan tâm đến nó nữa, Và tự thấy căn cơ mình thật thấp kém! Chấp nhận tạm thời chưa hiểu nó, còn hơn cố hiểu để thấy rối loạn hơn!
3/ Hôm nay, tự dưng con thấy ra một điều mới lạ từ “Tâm Kinh” cái mà đã lâu rồi con không muốn nghĩ đến! Con xin trình bày ra đây cái thấy của mình, xin thầy chỉ dạy:
– Trong câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc tức thị không, không tức thị sắc”, từ “Không” trong câu này hay còn gọi là “Tánh Không” chính là “Cái Thấy Biết” khi tâm rỗng lặng trong sáng! Là cái “thấy biết” thầm lặng như một nhân chứng đứng độc lập chỉ quan sát, quan sát tự nhiên thôi, không có cái cố gắng quan sát và không có một cái nhận xét nào! “Thấy chỉ là thấy, trong thấy chỉ có thấy”!
– “Tánh KHông” này sẵn có của Tâm chứ không phải trên sự vật hiện tượng! Khi tâm rỗng lặng trong sáng thì nhìn thấy sắc là sắc! Nhưng khi bị che mờ bởi khái niệm định nghĩa, kinh nghiệm… đã được ghi nhớ (bản ngã) thì nhìn thấy sắc không là sắc nữa mà là “tùm lum” theo cái biết đã được tiếp thu và giữ lại (Sợi dây thừng đã thành con rắn)! Thật là khó diễn tả, con xin lấy ví dụ cụ thể: Ví dụ như nhìn thấy “cái ghế”! Trước đây nhìn thấy cái ghế là: có bốn chân, được đóng từ gỗ và dùng để ngồi! Bây giờ khi tâm rỗng lặng trong sáng nhìn thấy cái ghế là “cái ghế” mà không phải là cái gọi là “cái ghế”!
– Tương tự như sắc thì: “Thanh Hương vị xúc pháp, Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, Thân Thọ Tâm Pháp “Tức thị không & bất dị không, tức thị & bất dị “Thanh Hương vị xúc pháp, Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, Thân Thọ Tâm Pháp“! Chỉ là khi ứng ra để sinh hoạt trong đời sống thì như cái biết thông thường, còn khi rỗng lặng trong sáng thì “nó như nó đang là”!
– Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức tạo ra Bản Ngã, Cái bản ngã này không chân thật, ảo tưởng! Nên khi thấy biết thông qua cái bản ngã này rồi coi nó là thật là mình thì đem đến phiền não, tham lam, giận hờn, thù oán… khổ đau! Nhìn nhận thông qua cái bản ngã thì đúng như câu “Nhất thiết duy tâm tạo”, tưởng tượng tạo ra đủ thứ hết như Đôn-ky-hốt nhìn cối xay gió rồi tưởng là người khổng lồ nên mới “đánh nhau với cối xay gió”! Sợi dây thì cho là con rắn! Nhưng cũng cần cái bản ngã này (ứng ra) để tham gia vào đời sống, để trao đổi, học tập và vẫn biết nó chỉ là cái bản ngã không thật thì không còn phiền muộn nữa! (Độ nhất thiết khổ ách)! Nếu không có cái bản ngã này thì cũng không có phương tiện để học tập, tiếp thu, để được thầy chỉ dạy! Bản ngã là phương tiện, thấy nó biết nó thì không khổ còn đồng nhất với nó thì sẽ khổ!
– “Tâm kinh” là dạy và chỉ rõ “Tâm” như thế đó! Chứ không phải “Tâm Kinh” là kinh thuộc lòng để luôn ghi nhớ trong trí não! Chắc có lẽ vì hành “Thâm Bát-nhã” kinh này nên mới gọi người hành là “Quán Tự Tại Bồ Tát”!
– “Vô đắc, dĩ vô sở đắc cố!” Cố tu để đắc cái này, đắc cái kia tức là đem cái bản ngã đi tìm cái “đắc” và đồng nhất với cái bản ngã tìm cầu đó thì chắc chắn đau khổ!
– Trong cuộc sống khi gặp hoàn cảnh không thuận lợi, lòng tự hỏi tại sao hoàn cảnh này lại đến với mình mà không đến với người khác! Sở tri mới giải thích rằng đó là do nghiệp trong quá khứ gây ra, giờ phải nhận quả! Vì vậy phải thực hành nhẫn nhục để trả hết sẽ vượt qua! Nhưng nếu thấy cái hoàn cảnh đó và sự nhẫn nhục của cái bản ngã như nó đang là một cách định tĩnh trong lành thì cuối cùng gọi là nhẫn nhục mà là không có cái gì gọi là nhẫn nhục!
Thật là khó diễn đạt và trình bày nên con viết hơi dài! Mong thầy từ bi hoan hỉ chỉ dạy! Ơn Thầy to lớn!
Xem câu trả lời
Tất cả những điều con trình bày thầy đã giải thích trong cuốn Thực Tại Hiện Tiền. Con đọc lại thì sẽ rõ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy cho con xin hỏi:
a/ Nội dung của 2 bộ kinh A-hàm và Nykàya có khác nhau không?
b/ Nếu có khác thì khác ở điểm nào là chính yếu?
Xin Thầy hoan hỷ chỉ cho con, con rất cảm ơn thầy. Cầu Tam Bảo gia hộ Thầy mạnh khỏe.
Xem câu trả lời
Có mấy điểm khác như:
– A-hàm kết tập bằng tiếng Sanskrit 200 năm sau đức Phật nhập Niết-bàn. Còn Nikaya kết tập bằng tiếng Pali 3 tháng sau đức Phật Niết-bàn.
– Nội dung có những điểm đồng điểm khác tùy theo mỗi Kinh nên khó nêu ra sự đồng dị một cách chung chung được. Con nên đọc và so sánh những bài Kinh tương đương ở 2 bộ để thấy ra những điểm đồng dị đó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con nghe đến chương thứ 9 trong sách Sống Trong Thực Tại, Thầy giảng ngắn gọn về pháp bố thí (Dāna) trong Phật giáo Nguyên Thủy có nghĩa là “sự cho ra dưới nhiều hình thức như san sẻ, biếu tặng, cúng dường, phục vụ, trợ giúp, xả ly,… thoát ly hoàn hảo ra khỏi cái ta ích kỷ.” Con lên Google tìm để hiểu thêm nhưng những bài viết về pháp Dāna của Phật Giáo Nguyên Thủy rất ít. Thầy cho con xin các tài liệu về Dāna nhé.
Xem câu trả lời
Con vào Thư viện đọc cuốn Tìm Hiểu Phước Bố Thí của Sư Hộ Pháp:
http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/TimHieuPhuoc/index.htm
Hay cuốn Nền Tảng Phật Giáo – Quyển V:
http://www.trungtamhotong.org/thuvien/index.php?l_id=304
Hay cuốn Thập Độ của Ngài Hộ Tông:
http://www.budsas.org/uni/u-thapdo/thapdo-00.htm
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư Ông, cháu có cơ hội đọc qua Trung Bộ kinh và tâm đắc với 3 bài kinh: Kinh Niệm Xứ, Nhất Dạ Hiền Giả và Đại Ca Chiên Diên Nhất Dạ Hiền Giả. Theo thiển ý của cháu, pháp tu hành của Phật đã gói gọn trong đây. Không biết suy nghĩ đó có đúng không Sư Ông? Mong Sư Ông chỉ cho cháu, khi xem kinh cần chú ý đến những bài kinh nào?
Con vào mục Thư Viện của trang web đọc cuốn Thực Tại HIện Tiền:
http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/ThucTaiHienTien1/index.htm
để biết được cốt lõi của lời Phật dạy.
Khi xem Kinh con nên chú ý đến nội dung của bài Kinh trên chính thân tâm mình. Mỗi bài Kinh của Đức Phật dạy đều chỉ thẳng vào cái thực nơi mỗi người ngay lúc đó, nói lên những gì thiết thực nhất đối với hiện trạng đang là của họ. Đối với 5 anh em Kiều Trần Như, Đức Phật giảng Tứ Diệu Đế. Nhưng đối với một người sắp chết như ông Bahiya Đức Phật chỉ dạy: “Trong nghe chỉ có nghe, trong thấy chỉ có thấy… Không có ông trong đó.”
Vậy con hãy quan sát, chiêm nghiệm thân tâm đang là của mình thì sẽ tự biết cần chú ý đến bài Kinh nào.