Thưa thầy, con có 1 vấn đề xin được hỏi thầy. Đó là về việc quan sát. Sau những lần thực tập và trải nghiệm, con thấy thật lạ.
Khi con không có chủ định tìm hiểu rõ tâm mình, những ham muốn hay cảm xúc hay suy nghĩ của mình, con chỉ đơn thuần tôn trọng, để nguyên nó như vậy và quan sát, thì con thấy được rất nhiều cái đột ngột xuất hiện. Những phát hiện rất mới. Ví dụ, tại sao khi đắm chìm vào cảm xúc thì cảm xúc tăng, khi cố kiềm nén thì cảm xúc cũng tăng, nhưng khi quan sát được thì cảm xúc lại biến mất…
Con cảm thấy rất hứng khởi với những phát hiện đó, nên con muốn tìm hiểu nó rõ hơn, sâu hơn… Nhưng ngay sau đó, con giống như bị bịt tắt, không quan sát được, không thấy được gì hết…
Đến khi con buông xuống, không có ý định gì trong đầu… thì một vài điều lại dần dần hiện ra trở lại… Con thấy điều này thật lạ và cũng thật hay.
Con mong được thầy giải thích cặn kẽ hơn cho con hiểu. Và con cũng thắc mắc, liệu ta có thể ứng dụng điều này như thế nào vào những vấn đề khác trong cuộc sống. Khi mà có quá nhiều rắc rối: giáo dục, kinh doanh, tình cảm,… Khi mà ai ai cũng muốn hiểu rõ hơn vấn đề nhưng đa số vẫn lâm vào bế tắc, và phải chấp nhận một giải pháp hạn chế.
Con thấy giống như là, khi mình không còn cố gắng giải quyết cái gì hết thì tự nhiên giải pháp hiện ra.
Con rất mong được thầy chỉ dẫn.
Con cảm ơn thầy.
Chúc mừng con đã phát hiện ra hoạt động của tánh biết tự nhiên. Điều này thầy có trình bày trong chương 1, Sống Trong Thực Tại. Khi quan sát một cách tự nhiên vô tâm và giản dị thì tánh biết sẽ phát huy sự sáng tạo của nó, vì vậy nó phát hiện được những sự thật rất mới mẻ. Nhưng khi con cố ý xem xét thì những khái niệm cũ kỹ của “cái ta lý trí” xen vào và làm cho thấy biết bị che mờ và lâm vào tình trạng bế tắc. Tánh biết tự nó vốn tịch nhiên và trong sáng khi không bị khống chế bởi bất kỳ áp lực nào, nhất là áp lực muốn biết và muốn được.
Có hai thái độ thấy biết: Một là thấy biết vô vi, vô ngã, nên không cần dụng công, đó là tri kiến thanh tịnh của tuệ tri, thắng tri và liễu tri. Hai là thấy biết hữu vi, hữu ngã, xuất phát từ sự dụng công của cái ta lý trí, đó là thấy biết qua khái niệm, tư tưởng, kiến thức vay mượn của tưởng tri và thức tri. Cho nên “học đạo quý vô tâm” là vậy. Vô tâm ở đây có nghĩa là tâm rỗng lặng trong sáng tự nhiên, không bị ý đồ của cái ta lý trí quấy rầy. Cố ý thì tạo nghiệp, còn vô tâm là duy tác. Đó là lý do vì sao toàn bộ giáo pháp của đức Phật đặt trên nền tảng không,vô tướng, vô tác, vô cầu.
Khi cố ý thì đã tự phân ra năng sở, mà đức Phật gọi là tự chẻ đầu làm hai trong bài kệ Pháp Cú 72: “Quả thật điều nguy hại, người ngu sinh sở tri, hủy phần sáng của mình, tự chẻ đầu chính nó”. Và cũng thấy ra điều này, một vị thiền sư đã nói: “Cố ý ươm hoa hoa chẳng nở, vô tình tiếp liễu liễu xanh um”. Con nhận ra điều này là một bước ngoặc quan trọng trong hành trình khám phá sự thật, để thoát khỏi ý đồ của cái ta ảo tưởng, nghĩ rằng có thể đạt được sở tri và sở đắc lý tưởng bằng nỗ lực của mình.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy,
Học và hiểu về “duyên sinh vô ngã” rồi nhưng làm sao thực hiện được vô ngã trong cuộc sống thường nhật?
Kính mong thầy hoan hỷ giúp đỡ cho con.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Trân trọng
Xem câu trả lời
Cứ sống và thấy sự sống diễn ra như nó đang là tức là sống vô ngã. Khi nhìn sự vận hành của đời sống mà cứ lăng xăng nghĩ là, cho là, phải là, sẽ là, phải chi là v.v… thì đó là hữu ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy xin thầy phân biệt cho con thấy cái làm vô vi và hữu vi nó khác nhau thế nào và làm sao để biết là mình đang hành vô vi?
Hành theo giới định tuệ là vô vi, hành theo tham sân si là hữu vi. Giới là KHÔNG làm việc ác. Định là tâm KHÔNG loạn động. Tuệ là KHÔNG vọng niệm, cho nên hành theo giới định tuệ là con đường KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ TÁC, VÔ CẦU nghĩa là vô vi vậy. Khi bản ngã khởi lên tư tưởng tham sân si tức là vô minh ái dục có mặt thì liền có hành động tạo tác để trở thành, đó gọi là hữu vi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính chào thầy ạ,
Tuy con không gặp được thầy nhưng con mến mộ thầy lắm. Con đọc một câu kinh Phật nhưng khó hiểu quá mong thầy chỉ dạy ạ:
“Con ta, vợ ta, tài sản ta. Người ngu nghĩ vậy nhưng mà có chi. Đến thân còn chẳng ra gì. Con đâu, vợ đâu, tài sản đâu?”
Con đọc thấy hay mà không hiểu được ý câu thơ này nói về điều gì ạ. Cám ơn thầy ạ.
Bài kệ này nói tính chất vô ngã của vạn pháp, chỉ tại chấp có ta, của ta và tự ngã mà khổ thôi. Điều này con không nên hiểu theo lý trí, mà cần phải chiêm nghiệm cuộc sống mới thấy ra.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy “Vô vi” có phải là hành động duy tác không ạ?
Xem câu trả lời
Vô vi (asankhata), vô hành, vô tác (akata) và duy tác (kiriya) đều có nghĩa là hành động không tạo nghiệp của thân khẩu ý nói chung, nhưng duy tác thường ám chỉ hành động vô vi của các bậc Thánh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy. Kính xin Thầy giải đáp thắc mắc này của con. Thầy đã đã dạy rằng sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay thận trong, chú tâm, quan sát là do tánh biết tự động ứng ra, chúng ta không nên (mà cũng không thể) chủ động tạo ra tình trạng sáng suốt định tĩnh trong lành hoặc thận trong chú tâm quan sát. Theo con để ý, thông thường khi lục căn tiếp xúc với lục trần, bản ngã liền lăng xăng tạo tác một cách tự động. Thầy lại dạy rằng, chỉ cần dẹp bỏ cái lăng xăng tạo tác của bản ngã thì tánh biết tự động hiển lộ, liền có thận trọng chú tâm quan sát hoặc sáng suốt định tĩnh trong lành. Như vậy, cái mấu chốt là làm sao dẹp được cái lăng xăng tạo tác này. Mà nếu làm như vậy thì không còn là vô vi nữa, tức là nơi đây đã có phi hữu ái (dẹp bỏ lăng xăng). Như vậy không thể nói là không cần làm gì cả (vô vi) mà lại có được sáng suốt định tĩnh trong lành. Thưa thầy đây là chỗ chưa hiểu của con.
Xem câu trả lời
Anh đừng lý luận, cứ nhìn vào thực tại thì liền thấy ra đâu là thực tánh của danh sắc, đâu là bản ngã lăng xăng tạo tác ngay. Nếu anh buông được cái ta thì tánh biết liền thấy pháp. Nhớ rằng buông là một thái độ chứ không là một hành động tạo tác, nên buông cái ta là vô vi chứ không phải hữu vi, trừ phi anh lấy cái ta chống lại cái ta (cố gắng buông) thì mới là hữu vi tạo tác. Nếu cái ta vẫn còn lăng xăng tạo tác thì đó là dịp để thấy ra cái ta sinh diệt và tạo tác thế nào. Anh đừng lo, tánh thấy sẽ thấy tất cả, vậy thì đâu cần lăng xăng tạo tác để làm gì.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thưa thầy, bản chất của hành hữu vi là khổ, nhưng trong cuộc sống đời thường có nhiều trách nhiệm mà bản thân mỗi người phải cố gắng làm. Chẳng nhẽ cứ quán sát thực tại như nó đang là, mà không cần phải hành động gì là đủ rồi sao? Cứ lặng lẽ hồn nhiên quán sát là pháp tự vận hành, tự giải quyết mà không cần bản thân phải gia công cố gắng gì sao? Hành + hữu vi => bản chất là khổ; Hành + vô vi => sáng suất, định tĩnh, trong lành. Vậy chúng khác nhau về “sự” như thế nào, có chuyển hóa cho nhau không và có thì chuyển hóa thế nào? Và “vô vi” với “chỉ cần quán sát mà không cần phải gia công làm gì cả vì bản chất của hành là khổ” nó có khác nhau không? Con cảm ơn thầy.
Câu hỏi: “Chẳng nhẽ cứ quán sát thực tại như nó đang là, mà không cần phải hành động gì là đủ rồi sao? Cứ lặng lẽ hồn nhiên quán sát là pháp tự vận hành, tự giải quyết mà không cần bản thân phải gia công cố gắng gì sao?” chứng tỏ con chưa thấy rõ thực sự hữu vi và vô vi là gì. Ai nói vô vi là không hành động, không trách nhiệm, không cố gắng? Đức Phật và các bậc Thánh đã vô vi tuyệt đối (được gọi là hành động duy tác) sao vẫn lợi lạc quần sanh vô ngã vị tha? Các Ngài có vô trách nhiệm với bản thân và cuộc sống không? Hữu vi trong nghĩa tạo tác nghiệp do bản ngã vô minh ái dục thì chắc chắn là khổ rồi. Còn vô vi (vô hành, vô tác, vô nguyện, vô thủ hữu) không phải là “không hành động hay không cố gắng gia công gì cả” như con nghĩ, mà là hành động hay cố gắng gia công thuận pháp chứ không thuận theo bản ngã vô minh ái dục (như hành động hữu vi, hữu ngã).
Bây giờ thầy lấy một ví dụ để con xem hành động nào có trách nhiệm với mình và người hơn. Nếu một bác tài đang lặng lẽ lái xe với tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành (hoặc khi cần thì thận trọng, chú tâm, quan sát rõ ràng), biết rõ tình trạng đang điều khiển xe của mình, biết rõ tình trạng lưu thông trên đường… mà vẫn rất thoải mái tự nhiên trọn vẹn với việc lái xe. Như vậy con có cho là bác tài không trách nhiêm, không cố gắng làm gì cả không? Trong khi một bác tài khác, đang lái xe mà cứ hậm hực nghĩ cách trả thù một kẻ đã hại mình ngày hôm qua, hoặc mãi mê tính toán một kế hoạch làm ăn trong tuần tới, hoặc đang bị thu hút vào một bản tin thời sự nóng bỏng gây lo lắng bất an… vì vậy, nhiều khi anh ta lái xe trong tình trạng vô thức, khả năng gây tai nạn hay cản trở giao thông là rất cao. Như vậy không phải hành động hữu vi hữu ngã của anh ta không những làm khổ mình mà còn làm khổ người nữa hay sao? Tài xế thứ nhất hoàn toàn trọn vẹn với thực tại, tâm không lăng xăng tạo tác, không bị tham sân si chi phối, khả năng tự động điều chỉnh rất cao, như vậy là hành động vô vi thuận pháp. Tài xế thứ hai, không trọn vẹn với thực tai, bị quá khứ, tương lai và hiện tại chi phối, bị tham sân si dẫn dắt, nên tâm luôn lăng xăng tạo tác, hành động đó gọi là hữu vi thuận ngã. Hữu vi như vậy không khổ là gi, phải không?
Con muốn chuyền hóa một hành động hữu vi sang vô vi thì chỉ cần trở lại thận trọng, chú tâm, quan sát thực tại – trạng thái thân tâm đang là, hay công việc đang làm. Như vậy không những hành động hữu vi, hữu ngã được chuyển hóa mà còn làm công việc ấy chu đáo hơn nhiều trong vô vi vô ngã. Một người đang chăm chú lau nhà rất thoải mái tự nhiên và an lạc, bỗng thấy em mình đi chơi về giẫm lên sàn làm bẩn đi. Người chị nổi giận, bây giờ việc lau nhà trở nên bực bội không thoải mái nữa. Đó là chiều chuyển biến ngược lại từ hành động vô vi vô ngã thành hữu vi hữu ngã, từ an lạc đến khổ đau. Tóm lại, vô vi ở đây là thái độ hành động sáng suốt vô ngã, an lạc tự nhiên, thoát khỏi thái độ toan tính đầy lo lắng, sợ hãi, bất an của cái ta vô minh ái dục, chứ không phải là không hành động gì cả. Hãy chiêm nghiệm thật kỹ lưỡng chính hoạt động hàng ngày của con thì con sẽ thấy ngay đâu là vô vi, đâu là hữu vi.