Câu hỏi:
Tại sao có Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông?
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiSau Khi đức Phật nhập Niết-bàn khoảng 100 năm, Phật giáo bắt đầu chia ra hai khuynh hướng: Khuynh hướng thứ nhất chủ trương giữ nguyên lời dạy của đức Phật không được tự ý thêm bớt. Khuynh hướng thứ hai chủ trương triển khai giáo lý đức Phật cho phù hợp với căn cơ trình độ, phong tục tập quán, không gian thời gian, v.v. .. Khuynh hướng thứ nhất vì do các vị trưởng lão chủ trương nên được gọi là Trưởng Lão Bộ hay Thượng Tọa Bộ. Và vì chủ trương giữ nguyên giáo pháp đức Phật nên được gọi là Phật giáo Nguyên Thủy. Phật giáo Nguyên Thủy phần lớn hoằng hóa ở các nước phía Nam nên còn được gọi là Phật giáo Nam Tông.
Khuynh hướng thứ hai vì do các vị giáo thọ trẻ chủ trương triển khai giáo lý đức Phật nên được gọi là Đại Chúng Bộ. Vì chủ trương triển khai giáo lý nên được gọi là Phật giáo Phát Triển, và vì khuynh hướng này phần lớn hoằng hóa ở các nước phương Bắc nên gọi là Phật giáo Bắc Tông. Khuynh hướng phát triền từ 100 năm đến 600 năm sau đức Phật Niết-bàn vì phát triển chưa quy mô nên gọi là giai đoạn Phật giáo Tiểu Thừa. Từ 600 năm trở về sau phát triển quy mô hơn nên gọi là Đại Thừa. Tóm lại Nam Tông tức Phật giáo Nguyên Thủy hay Trưởng Lão Bộ, còn Bắc Tông tức Phật giáo Phát Triển bao gồm hai giai đoạn Tiểu Thừa và Đại Thừa. Cốt lõi của cả hai khuynh hướng vẫn giống nhau, chỉ khác nhau về phương tiện tu tập mà thôi.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiHộ trì Phật Pháp hiểu theo nghĩa thông thường là duy trì và hoằng dương giáo lý mà đức Phật đã giảng dạy, bằng cách dịch thuật, ấn tống Kinh Điển, học Pháp, thuyết Pháp, trì tụng Kinh Luật v.v. kể cả việc xây chùa, hộ Tăng cũng là gián tiếp hộ trì Phật Pháp. Tuy nhiên, với nghĩa sâu hơn, hộ trì Phật Pháp là thực hành theo Giáo Pháp của đức Phật.
Mặt khác, chúng ta nên lưu ý một lời Phật dạy là “Pháp hộ trì người thực hành theo Pháp”. Ở đây không còn là hộ trì Phật Pháp mà chính là Phật Pháp hộ trì. Khi có nhiều người thực hành đúng theo Chánh Pháp và đạt được giác ngộ giải thoát thì không những Phật Pháp ngày càng hưng thịnh (hộ trì Phật Pháp) mà đồng thời Phật Pháp cũng đem lại nhiều lợi lạc cho người thực hành và cộng đồng xã hội (Phật Pháp hộ trì).
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiKhi điều học này chưa được ban hành, chư Tăng đi khất thực và thọ thực lúc nào cũng được, về sau do có nhiều sự kiện xảy ra khiến người đời chê trách nên đức Phật mới chế định. Điều học này được ban hành vì nhiều lợi ích như sau:
1) Không bị người đời chê trách 2) Không mất thời gian cho việc ăn uống 3) Hành thiền ít bị hôn trầm 4) Giảm trừ bệnh hoạn (điều náy đã được y học kiểm chứng) 5) Không trở thành gánh nặng cho tín thí.
II. Trong thời đức Phật, cũng như theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên Thủy, khất thực không những là phương tiện nuôi mạng chân chính mà còn là một hạnh tu cao thượng. Nếu vị nào nguyện chỉ đi khất thực chứ không thọ dụng vật thực dưới hình thức trai Tăng hay cách cúng dường khác thì gọi là hạnh đầu-đà (dhutanga), có mục đích chế ngự tham ái trong vật thực (một trong 5 pháp tham đắm nguy hiểm: Tài, sắc, danh, thực, thùy). Hạnh khất thực có những lợi ích như sau:
1) Dễ nuôi mạng, không quá lệ thuộc vào việc sinh nhai 2) Có nhiều thời gian để hành Pháp 3) Dễ chú tâm chánh niệm tỉnh giác trong oai nghi đi. 4) Có dịp chứng kiến và chia sẻ với những nỗi khổ của chúng sinh nên dễ phát triển tâm bi mẫn 5) Có dịp rải tâm từ đến mọi loài. 6) Diệt trừ tâm ngã mạn, tự cao nên dễ hòa đồng và bình đẵng với mọi người 7) Được mạnh khỏe, ít bệnh tật.
Và theo quy định của điều học này thì chư Tăng không được đi khất thực sau giờ ngọ để không bị người đời chê trách là sao giờ nào cũng có chư Tăng đi khất thực ngoài đường!
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiNói chung thì đúng là như vậy. Người sinh lên cõi trời được hưởng quả phước trong thời gian khá lâu nên họ khó thấy được ba thực tánh pháp: vô thường, khổ não, vô ngã và tất nhiên họ không có động cơ gì thúc đẩy nhu cầu giác ngộ giải thoát. Vì vậy ở cõi người là môi trường có đủ duyên để tu hành hơn. Nhưng thực ra cũng tùy cõi trời nào và người sanh lên cõi trời ấy căn cơ như thế nào nữa. Có một số chư Thiên khi nghe đức Phật thuyết Pháp cũng đắc Đạo Quả, một số chư Thiên đã đắc một trong ba Quả hữu học sau khi sinh lên cõi trời một thời gian thích hợp và tương ứng sẽ đắc Đạo Quả A-la-hán tại đó. Như vậy ở một trình độ nào đó thì dù ở cõi trời vẫn tu hành được.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiThường người Phật tử nhiễu quanh tượng Phật, nhiễu cây Bồ-đề, nhiễu Bảo Tháp thờ Xá-lợi, Tháp Tổ, Chính Điện, bốn cảnh động tâm, lễ dâng y kathina và đôi khi nhiễu quanh quan tài cha mẹ, thầy tổ v.v. để tỏ lòng cung kính chứ không có ý nghĩa nào khác.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiSima là ranh giới do chư Tăng định tại một địa điểm hợp pháp, ví dụ như chính điện, bằng cách đọc tuyên ngôn. Khi sima thành tựu thì chư Tăng mới có thể cử hành các Tăng sự như lễ dâng y Kathina, lễ xuất gia, lễ tự tứ v.v. trong ranh giới đó. Mục đích chính của sima là để chư Tăng phải làm Tăng sự chung trong đó chứ không chia thành từng nhóm hành Tăng sự riêng, sinh ra tình trạng chia rẽ.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời