Thưa Thầy, con có thể tự thọ bát quan trai giới ở nhà mà không cần đến chùa xin giới hay không? Trong tu tập, người hành giả có cần phải chứng đắc được thiền định mới có thể tu tập thiền quán thành công hay không? Con xin cám ơn Thầy!
1) Đi thọ bát quan trai ở chùa cũng tốt, mà tự mình thọ ở nhà cũng được, tùy theo điều kiện cho phép của mỗi người. Quan trọng là ngày hôm đó có thọ bát quan trai giới trong sạch thanh tịnh hay không mà thôi. Bát quan trai mục đích giúp người tại gia, không có điều kiện xuất gia, có thể tập sống không lệ thuộc vào một số phương tiện hưởng thụ để sống giản dị, thanh thoát, và ít bị ràng buộc hơn.
2) Có loại định cần thiết cho thiền tuệ, có loại định trở ngại cho thiền tuệ. Nói một cách tổng quát, định nào dính mắc vào thời gian, sở đắc và bản ngã đều trở ngại cho thiền tuệ. Định nào không vướng kẹt trong quá khứ, hiện tại, vị lai (thời gian), không trú vào sở đắc, không có bản ngã sở đắc mới có thể xứng hợp với giới và tuệ trong thiền tuệ được. Con vào mục Thư Viện trong trang Web này để xem thêm bài viết của thầy về đề tài này: Thực Tại Hiện Tiền 2, chương 8: Nội tâm tĩnh lặng. Chúc con tu hành tinh tấn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Tại sao đức Phật lại ví hưởng thụ các dục như cầm bó đuốc cỏ đi ngược gió? Mong thầy giải đáp dùm. Xin cảm ơn thầy.
Đơn giản là vì cầm đuốc đi ngược gió thì bị lửa tạt vào đốt cháy chính mình, cũng vậy hưởng thụ ngũ dục thì bị lửa ngũ dục thiêu đốt. Sắc, thanh, hương, vị, xúc là món ăn của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nếu sự tương giao giữa căn môn và trần cảnh diễn ra trong sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì phát sinh điều thiện hay giác ngộ giải thoát. Nếu sự tương giao diễn ra trong vô minh ái dục, cụ thể là say mê trong ngũ dục thì đưa đến bất thiện và hậu quả là phiền não khổ đau.
Cũng cần lưu ý phân biệt hưởng thụ ngũ dục với đắm say ngũ dục. Hưởng thụ ngũ dục theo nghĩa biết thưởng thức sắc tướng, âm thanh, mùi vị v.v… một cách đúng đắn và không dính mắc thì vẫn tốt. Chỉ khi say đắm trong âm thanh, sắc tướng v.v… mới thật sự tự hại mình như cầm đuốc đi ngược gió vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. Trong Kinh Phật Giáo Nguyên Thủy, có đoạn nào Đức PHẬT BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI nói về Đức Phật A-di-đà và Đức Phật Di-lặc không? Vì mới đây trên trang web con thấy 1 vị Thầy ở nước ta cho rằng chỉ có duy nhất 1 Đức PHẬT BỔN SƯ mà thôi còn những vị kia là do hư cấu. Con đang là Phật Tử tu theo Tịnh Độ nên lòng con rất bâng khuâng, con không biết nên ngừng hay chuyển tông khác. Con sực nhớ tới Thầy. Vì chỉ có Phật Giáo Nguyên Thủy mới giữ gìn và không sửa đổi lời nói của Đức PHẬT. Xin Thầy cho con 1 lời khuyên. Chúc Thầy nhiều sức khỏe.
Theo Tam Tạng Kinh Điển Pāli nguyên thủy thì không có Kinh nào nói đến Phật A-di-đà cả. (Nhưng Đức Phật Thích Ca có thọ ký cho một vị tỳ kheo trong hội chúng của Ngài với lời tiên đoán là vị ấy sẽ thành Phật tương lai hiệu là Di-lặc). Kinh Di-đà xuất hiện đồng thời với sự khởi nguyên của Phật Giáo Đại Thừa, khoảng 600 năm sau Phật Niết-bàn. Kinh Di-đà có nguồn gốc bằng tiếng Sanskrit, ngôn ngữ này được người Bà-la-môn đặt ra phỏng theo ngôn ngữ Pāli hàng trăm năm sau Phật Niết-bàn, nên trong thời Đức Phật chưa có ngôn ngữ này.
Để hiểu thêm về nguồn gốc ngôn ngữ Sanskrit đạo hữu nên đọc cuốn “Pāli is the mother of Sanskrit” của Harbir Angaree (Ngôn ngữ Pāli mẹ đẻ tiếng Sanskrit, Hữu Minh dịch, trên trang phatgiaonguyenthuy.com ). Và để hiểu thêm về pháp môn niệm Phật xin đạo hữu vui lòng xem thêm cuốn ” Thiền Phật Giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển”, phần đối chiếu Pháp môn niệm Phật A-di-đà với Pháp môn niệm Ân Đức Phật trong Phật Giáo Nguyên Thủy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, cần phải hiểu câu “và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy…” trong phần quán pháp trên pháp với 6 nội ngoại xứ của Kinh Tứ Niệm Xứ như thế nào ạ? Làm sao có thể biết là kiết sử không thể sanh khởi trong tương lai được ạ?
Vị đã thực chứng tiến trình tâm Nhập Lưu và Nhất Lai biết 3 kiết sử thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ không thể sanh khởi trong tương lai. Vị Bất Lai biết 3 kiết sử trên cùng với dục ái và sân hận không thể sanh khởi trong tương lai. Cũng vậy, vị Vô Sanh biết 5 kiết sử trên cùng với sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, trạo cử và vô minh không thể sanh khởi trong tương lai.
Nếu con thực sự muốn làm sao có thể biết điều này thì nên tinh tấn tu tập buông bỏ bản ngã cùng với vô minh ái dục thì sẽ biết ngay. Nhưng nếu con muốn biết chỉ để thoả mãn tính tò mò của lý trí hay muốn tích luỹ kiến thức thì coi chừng trở thành sở tri chướng. Giống như người ăn những món ngon mà không tiêu hoá được thì sẽ chuốc lấy bệnh tật vô cùng nguy hiểm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Trình tự sắp xếp của 37 phẩm trợ đạo có ý nghĩa như thế nào thưa thầy? Phải chăng Tứ Niệm Xứ hỗ trợ cho Tứ Chánh Cần rồi Tứ Chánh Cần lại hỗ trợ cho Tứ Như Ý Túc -> Ngũ Căn -> Ngũ Lực -> Thất Giác Chi… cứ như vậy cho đến Bát Chánh Đạo được hoàn thành?
Xem câu trả lời
37 phẩm trợ đạo chỉ sắp xếp theo thứ tự chi pháp tăng dần thôi chứ không theo thứ tự hành pháp này rồi đến hành pháp kia như con trình bày. Vì mỗi pháp môn sử dụng cho mỗi lãnh vực khác nhau. Tất nhiên những pháp môn này có liên hệ và bổ túc cho nhau nhưng không phải theo trình tự như được sắp xếp.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con đọc trong cuốn “Tìm Hiểu Pháp Hành Thiền Tuệ” của sư Hộ Pháp trong mục Thư Viện thấy có hai khái niệm tương đối giống nhau là tận diệt và hoại diệt. Xin thầy cho con biết sự khác nhau giữa hai ý nghĩa Khayā (tận diệt) và Vayā (hoại diệt) (của danh và sắc), con chưa phân biệt được hai từ này ạ. Xin cảm ơn thầy.
Xem câu trả lời
Tận diệt còn gọi là diệt đoạn tận hay tuỵệt diệt nghĩa là chấm dứt hay diệt mất hoàn toàn không còn dư sót. Còn hoại diệt hay biến diệt là diệt dần dần do biến hoại cho đến khi chấm dứt.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, xin Thầy cho con một thí dụ để biết thế nào là nghĩa của “Chân Không Diệu Hữu.”
Con xin rất cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Con có thể chỉ bất cứ cái gì nó cũng đều là chân không và diệu hữu cả. Vì vậy có câu: “Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”. Nếu có thì giờ con mở qua mục Thư Viện tìm cuốn Thực Tại Hiện Tiền, trong đó thầy đã nói về chân không diệu hữu rất rõ. Tuy nhiên điều này con không nên tìm hiểu bằng lý trí, kiến thức; cứ lắng nghe, quan sát và chiêm nghiệm rồi con tự thấy ra mới thật là hứng thú.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
(a) Tại sao tu sĩ Phật Giáo phải sống độc thân và ăn chay? Con nghe nói Phật Giáo Tây Tạng không buộc các tu sĩ phải sống độc thân, điều đó có đúng không ạ?
(b) Trong nhiều bản kinh (đại thừa?) có những đoạn có vẻ trọng nam khinh nữ. Chẳng hạn có nói nếu đọc kinh này… bao nhiêu lần thì sẽ không đầu thai làm con gái nữa v.v…
Phật giáo nguyên thủy quan niệm như thế nào về những việc này? Đức Phật Thích Ca đã có giảng như thế nào về những việc này?
Con xin cám ơn Thầy,
Nguyên
a) Tu sĩ Phật giáo cũng tùy tông phái hoặc địa phương mà có ăn chay hay không ăn chay, sống độc thân hay có gia đình. Điều này tuỳ thuộc vào chủ trương của mỗi tông phái và họ cũng có cái lý riêng của họ. Tu sĩ sống độc thân để không bị ràng buộc vào đời sống gia đình, nhờ vậy họ dễ dàng vân du hành đạo và sống đời sống vô ngã vị tha hơn.
b) Thực ra không phải trọng nam khinh nữ, mà thực tế trong đời sống tu tập người nam có nhiều thuận lợi hơn người nữ. Nhất là trong đời sống xuất gia, người nữ khó sống một mình trong rừng hay những nơi hoang vắng chẳng hạn. Chính vì một số điều bất tiện hơn người nam mà nhiều người tu thích có thân nam hơn thân nữ. Nhưng về mặt tu chứng giác ngộ giải thoát thì Phật giáo không phân biệt nam nữ gì cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, trong kinh Niệm xứ thường lặp lại: “vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm.” Thưa thầy đã an trú chánh niệm rồi sao còn phải “hướng đến” chánh niệm nữa ạ? Như vậy chẳng phải giống như tìm cái mình cần tìm trong khi nó đang nằm trong tay không ạ?
Xem câu trả lời
Câu hỏi của con thật thật tuyệt vời. Từ lâu mỗi lần giảng đến đoạn kinh trên thầy đều phải đính chính cụm từ “với hy vọng hướng đến” này. Cụm từ này có nguyên văn Pàli như sau: “…yàvad eva ñàna-mattàya patissati-mattàya”. Yàvad eva có nghĩa là “tới…cần thiết” hay “vừa đủ” (as much as it is necessary). Mattàya có nghĩa là với mức độ. Vậy cụm từ trên dịch là: “Với mức độ niệm tuệ vừa đủ”. Do đó đoạn kinh trên nên được dịch là: “Vị ấy an trú niệm như vậy với mức độ tuệ tri và ức niệm vừa đủ”. Bởi vì chánh niệm tỉnh giác dư hay thiếu đều không thể thấy được thực tánh pháp. Trong cụm từ Pàli trên không hề có một dấu hiệu nào là “với hy vọng hướng đến” cả. Đọc kinh nhất là đọc bản dịch thật nguy hiểm, vì tam sao thất bổn, do đó cần đối chiếu với nguyên văn và nhất là đối chiếu với sự thật tự mình thực chứng mới đúng được.