Bạch Thầy, con có điều này không rõ xin thầy từ bi chỉ giáo. Đó là trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Tín vi thiện căn công đức mẫu, trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn. Thoát ly sanh tử xuất mê lưu. Trực vãng Niết Bàn vô thượng đạo”. (Nghĩa là: Lòng tin là mẹ của căn lành công đức. Nuôi lớn tất cả các căn lành. Thoát khỏi sanh tử vượt sông mê. Thẳng đến Niết Bàn đạo Vô Thượng) Bài kệ này con thấy hình như là trái ngược với điều đã được Phật dạy trong các Kinh Nguyên Thủy. Trong Kinh Nguyên Thủy đức Phật dạy rằng không nên vội tin bất cứ điều gì dù cho đó là lời dạy của chính Đức Phật. Con rất là phân vân, xin Thấy từ bi chỉ dạy. Xin thành kính tri ân Thầy
Xem câu trả lời
Niềm tin có thể làm cho tâm thanh tịnh, được ví như viên ngọc để vào nước làm cho nước lắng trong. Niềm tin thù thắng hơn, vô ngã hơn là sự tu tập dựa vào nỗ lực cá nhân. Dĩ nhiên là phải chánh tín chứ không phải tà tín. Có chánh tín thì có tấn, niệm, định, tuệ, nên nói tín là gốc của mọi thiện căn. Nếu tin vào Phật Pháp Tăng, không tin vào bản ngã, thì quả là có thể thấy được thực tánh chân đế. Cho nên đức Phật gọi một vị Tu–đà-hoàn (đã thể nhập thực tánh chân đế, tức thấy được Niết-bàn) là bậc “Tịnh Tín Bất Động”. Bậc Tịnh Tín Bất Động đúng là đang đi thẳng đến Niết-bàn vô thượng. Mặc dù bài kệ hơi cường điệu niềm tin nhưng vẫn không sai với niềm tin chơn chánh trong Phật Giáo Nguyên Thủy. Trong Kinh Kalama từ “vội tin” ám chỉ niềm tin không đúng thôi chứ trong Kinh Nguyên Thủy TÍN vẫn là yếu tố cơ bản trong 5 căn (ngũ căn, ngũ lực).
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
Thiên Thai Tông có tư tưởng “Nhất niệm tam thiên”, Giáo sư dạy con môn Phật Giáo Trung Quốc, không giải thích được và dặn các con về hỏi Thầy Tổ hoặc là tìm tài liệu nói về câu này. Con có Thầy rồi, Thầy sẽ giúp con hiểu. Con tiếc, con không được làm đệ tử của Thầy. Nhưng trong thâm tâm con giờ đây luôn kính ngưỡng Thầy như SƯ PHỤ của con và con rất tự hào về Thầy.
“Nhất niệm tam thiên” là câu nói của Tông Thiên Thai trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, thuộc Giáo Tông. Trung Hoa chia ra hai phái thiền: Một là thiền chỉ quán của Giáo Tông, ám chỉ Tông Thiên Thai lấy kinh Pháp Hoa làm tông chỉ. Hai là thiền Kiến Tánh của Thiền Tông, ám chỉ thiền Đông Độ, lấy Chánh Pháp Nhãn Tạng làm gốc không y cứ vào Kinh Giáo.
Về lý thì Giáo Tông hay Thiền Tông cũng giống nhau. Thiền Tông nói “Nhất ba động vạn ba tùy”, một làn sóng động lên kéo theo muôn đợt sóng, thì Giáo Tông cũng nói: “Nhất niệm tam thiên”, một niệm sanh thì ba ngàn thế giới cũng sanh. Những câu này đều có ý tương tự như “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức” hoặc “Nhất niệm khởi thiện ác dĩ phân”. Theo Vi Diệu Pháp Phật Giáo Nguyên Thủy, nếu tâm không sanh ý niệm nào (vô sanh) thì thực tánh (paramattha) của chân đế hiền bày, còn đã sanh một niệm thì mở ra thế giới khái niệm (paññatti) với vô vàn chế định pháp của tục đế. Tóm lại, cốt lõi của Pháp này là: Tâm bình thế giới bình, tâm sanh thế giới sanh.
“Nhất niệm tam thiên” còn có nghĩa khác theo Kinh Hoa Nghiêm là: “Vạn pháp qui nhất, nhất quy vạn pháp” (Tất cả trong một, một trong tất cả), “Nhất đa tương dung” (Một và nhiều dung nhiếp nhau), “Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung” (Trời đất gồm thâu trong hạt cải). Hoặc theo Dịch Lý: “Các Hữu Thái Cực”, nên Lão Tử nói: “Nhất… sinh vạn vật” v.v… đều có ý nói một pháp bao hàm vạn pháp. Vì chữ niệm ở đây theo Vi Diệu Pháp là sát-na tâm (khana citta), một đơn vị lực gồm đủ tính chất không gian thời gian cực nhỏ, nhưng lại có cấu trúc cơ bản của vạn pháp, nên sự kết hợp trùng trùng duyên khởi của những đơn vị cực nhỏ này (theo tiến trình tâm sinh vật lý) có thể cấu tạo thành vô số pháp tướng từ vi mô đến vĩ mô phong phú, đa thù và vô tận.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư, con nghe nói có đến 40 đề mục thiền định, vậy có phải tùy vào mỗi người mà chọn lựa đề mục cho thích hợp với mình nhất, nhưng tại sao lại có ý kiến cho rằng hơi thở và tứ đại là quan trọng nhất còn những đề mục khác không quan trọng? Đều là Phật giáo Nam Tông nhưng Thiền của Thái – Miến Điện – Sri Lanka có điểm nào khác nhau không? Khác nhau có phải ở các đề mục quán, hay có phái thiền không cần bước Định mà vào thẳng Tuệ, một lần con được nghe một vị sư Thái Lan chỉ dẫn không cần bước Định mà vào thẳng Tuệ luôn như thế có đúng với chánh pháp hay không? Vì con hay nghe nói đến Giới Định Tuệ.
Con cảm ơn sư.
Xem câu trả lời
Cám ơn con đã đặt những câu hỏi rất nhiệt tình, chứng tỏ con đang quan tâm đến Phật Pháp. Nhưng con nên đọc lại tất cả những câu hỏi trong mục hỏi đáp này để câu nào đã có hỏi và trả lời rồi thì con không cần hỏi lại. Sư có rất ít thời gian mà hầu hết những câu hỏi của con lại đã được trả lời trước đây rồi. Hơn nữa chủ yếu sư chỉ tập trung trả lời cho những thắc mắc liên quan đến việc tu tập chứ không có ý giải quyết mọi vấn đề thuộc kinh điển nhằm thỏa mãn kiến giải thuần lý, hoặc sự tranh cãi của nhiều ý kiến khác nhau trên quan điểm đức tin hay lý luận giữa các trường phái thiền hiện nay. Con cũng đừng quan tâm đến những ý kiến bất đồng đó làm gì, chỉ nên nhìn sâu vào những sự kiện thực tế nơi chính mình và cuộc sống, khi đã thấy ra sự thật thì những quan niệm đều trở nên vô nghĩa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kinh bạch thầy, xin thầy từ bi giảng cho con hiểu rõ từ “chư hành” trong bài kệ: “Chư hành vô thường, thị sanh diệt pháp, sanh diệt dĩ diệt, tịch diệt vi lạc”
Kính chúc thầy pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, Phật sự viên thành.
Tesam vùpasamo sukho : Tịch diệt vi lạc (Hành diệt mới lạc)
Chư hành còn gọi là pháp hữu vi (sankhàrà) có hai loại: Một là pháp hữu vi tự nhiên do duyên sinh, như nước do duyên hòa hợp hai khí H và O mà sinh ra. Pháp hữu vi tự nhiên này có tính chủ yếu là vô thường (Sabbe sankhàrà anicca’ti). Hai là pháp hữu vi tạo tác do nghiệp sinh, như hành động tạo tác nghiệp thiện ác mà có. Pháp hữu vi tạo tác có tính chủ yếu là khổ não (Sabbe sankhàrà ca dukkha’ti). Chư hành tức tất cả pháp hữu vi (hữu tướng, hữu tác) đều có ba tính chất vô thường, khổ não, vô ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Con muốn tìm hiểu về việc tu thiền. Thiền Phật Giáo Nam Tông và thiền lúc Bồ Tát Sĩ-đạt-ta mới xuất gia học từ các đạo sĩ khác nhau ở điểm nào? Người tu thiền theo Phật Giáo Nam Tông không cần chứng các thiền Sắc Giới và Vô Sắc mà chỉ cần cận định cũng đủ chuyển qua Thiền Tuệ Minh Sát có đúng không hay phải chứng hết các tầng thiền sắc và vô sắc rồi mới vào thiền Tuệ Minh Sát được?
Con xin chân thành cảm ơn thầy.
Thiền của các đạo sĩ thuộc về thiền định sắc và vô sắc giới, định này có chứng nghiệm tâm linh cao nhất trong tam giới. Nhưng khi Bồ-tát Sĩ-đạt-ta chứng đắc các bậc thiền định này thì vẫn thấy còn bị dính mắc trong sắc ái và vô sắc ái nên vẫn còn vô minh. Sau đó Ngài tu khổ hạnh, nhưng vẫn không diệt được vô minh ái dục. Ngài nhớ lại lúc còn thơ ấu đi theo vua cha xem lễ hạ điền, với tâm rỗng lặng trong sáng của trẻ thơ, Ngài thấy tất cả mọi sự kiện diễn biến một cách trong sáng hồn nhiên, không ảo tưởng, không có cái ngã phê phán, kiềm duyệt… nên đã thấy mọi sự hoàn toàn trung thực. Ngài phát hiện ra tâm thiền tuệ, vượt ngoài ý niệm của cái ta ảo tưởng và ngay tối hôm đó với tâm hoàn toàn thanh tịnh trong sáng, vô ngã Ngài đã chứng ngộ thực tánh chân đế, rốt ráo Niết bàn.
Mục đính của thiền định chỉ chứng đắc những trạng thái tâm an chỉ như tầm, tứ, hỷ, lạc ,xả, nhất tâm, tạm thời chế ngự được 5 triền cái nên được an lạc. Còn mục đích của thiền tuệ là thấy ra thực tánh pháp, tức là không còn bản ngã vô minh ái dục để nương tựa, chấp trước, tham ưu điều gì ở đời. Phật giáo vẫn chấp nhận thiền định như là pháp hiện tại lạc trú, nhưng đó không phải là điều kiện tất yếu để giác ngộ. Không cần đắc định sắc, vô sắc giới vẫn giác ngộ giải thoát được. Hơn nữa, chánh định khác với tà định. Chánh định là định hướng đến vô ngã, giải thoát; tà định vẫn còn bị trói buộc trong bản ngã vô minh ái dục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Con là một Phật tử mới làm quen với Phật giáo Nam tông. Xin thầy cho con hỏi điều này để con biết cách làm cho phải lẽ. Con thấy quý sư hay ni ở các chùa Nam tông đều quỳ lạy trán chạm đất khi đảnh lễ thầy. Các Phật tử cũng làm như vậy khi đảnh lễ hay dâng vật gì cho chư Tăng. Con rất xúc động trước hình ảnh này và luôn làm theo như vậy, nhưng con không biết đây là quy định của Phật giáo Nam tông hay thật sự có một ý nghĩa cao cả nào khác? Con thấy ở một số chùa, Phật tử chỉ lạy trán chạm đất khi ở trước Tam Bảo thôi. Xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con. Con xin cám ơn thầy.
Theo Phật giáo đảnh lễ là một cử chỉ bày tỏ lòng cung kính hơn là một nghi lễ, nên dù đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, Cha Mẹ, hay các bậc trưởng thượng đều phải “ngũ thể đầu địa” nghĩa là 2 đầu gối, 2 cánh tay (từ cùi chỏ đến bàn tay) và trán đều phải chạm đất. Trong Kinh mô tả vào thời đức Phật người đương thời đảnh lễ là cúi lạy bụi (vi trần) dưới chân Phật chứ không dám nói lễ Phật (hoặc các bậc đáng tôn kính cũng vậy). Ngày nay thầy vẫn còn chứng kiến nhiều người Phật tử ở Ấn Độ và các nước phương Đông cũng lễ lạy bằng cách cúi xuống sờ vào chỗ bước chân chư Tăng đi qua rồi xoa lên đầu mình để tỏ lòng cung kính.
Cung kính lễ bái là một trong 10 nhân sinh phước, là pháp giúp chúng ta loại trừ tính ngã mạn tự cao, và khi thành tâm lễ bái thân tâm rất nhẹ nhàng an lạc. Do trong Tăng chúng có một số vị sư thiếu phẩm hạnh đạo đức nên ngày nay một số Phật tử chỉ lễ Phật chứ không lễ Tăng. Bên Phật giáo Nam Tông (Nguyên Thủy) còn giữ được cách lễ bái này là điều đáng mừng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, tiếng Pali cũng là tiếng La-tinh đặt ra hay có từ thời của Đức Phật đặt ra? Vì sao tiếng La-tinh cũng có chữ ABC.. mà phát âm, dấu có ý nghĩa lại khác nhau?
Ngôn ngữ Pali do chính đức Phật đặt ra dựa trên một số tiếng địa phương sẵn có thời bấy giờ ở Ấn Độ để dùng làm phương tiện thuyết pháp. Đó là ngôn ngữ có văn phạm và chữ viết đầu tiên trên thế giới, 200 năm sau Bà-la-môn lại dựa trên ngôn ngữ Pali để đặt ra ngôn ngữ Sanskrit. Hai ngôn ngữ này có ảnh hưởng rất lớn đối với các ngôn ngữ về sau như tiếng Anh, tiếng Pháp v.v…
Khi người Anh sang xâm lăng Ấn Độ, đã đem Tam Tạng Pali viết bằng chữ viết cổ về Anh Quốc giao cho Hàn Lâm Viện Anh nghiên cứu và họ đã lập ra Hội Pali Text Society để chuyên nghiên cứu dịch thuật. Và để mọi người dễ đọc, họ đã dùng tiếng La-tinh để phiên âm tiếng Pali, do đó ngày nay chúng ta mới có văn bản Tam Tạng Pali bằng vần alphabet La-tinh. Do có một số âm không phiên âm bằng tiếng La-tinh được nên họ phải đặt thêm, vì vậy có những âm không đọc như tiếng La-tinh.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy. Xin Thầy cho con hỏi: Con thấy Quý Ngài Tăng Thống Tích Lan đến thăm các chùa Nguyên thủy Việt Nam sao lại thuộc hệ phái… Xin Thầy giải thích rõ cho con Tích Lan có bao nhiêu hệ phái và những hệ phái đó Quý Ngài tu như thế nào (chuẩn). Con cám ơn Thầy. Chúc Thầy nhiều sức khỏe.
Từ hệ phái này không có nghĩa là Nam Tông, Bắc Tông, Khất Sĩ v.v… như ở Việt Nam. Thực ra dùng từ hệ phái không đúng vì tất cả các nước theo Phật Giáo Theravada đều cùng chung một hệ phái Nam Tông hay Nguyên Thủy, đều lấy Tam Tạng Pali làm gốc, gần như nội dung không có gì khác nhau. Chỉ khác nhau về hệ thống tổ chức và sở trường pháp hành, nên mỗi phái có Tăng Thống riêng. Có lẽ dùng từ hệ thống hoặc trường phái thì đúng hơn, vì lý do sau đây:
1) Do xuất xứ của tổ chức, ví dụ như một số vị Tăng Tích Lan đi du học Thái Lan, Miến Điện… khi về nước tổ chức chùa chiền, đệ tử, sinh hoạt theo truyền thống Phật Giáo Nam Tông Thái Lan, Miến Điện. Những vị học trong nước thì giữ truyền thống Tích Lan. Do vậy ở Tích Lan có ba truyền thống tổ chức Phật Giáo Nam Tông riêng nhưng không khác nhau gì mấy, họ vẫn sinh hoạt chung, tu học chung, hành lễ chung với nhau không có gì trở ngại v.v… và tuyệt đối không có mâu thuẫn đối kháng.
2) Do pháp hành sở trường của mỗi vị thầy mà biệt truyền thành trường phái riêng. Ví dụ vị thầy thiện xảo về thiền định hay thiền tuệ thì phát triển chùa chiền và đệ tử thành một trường phái chuyên về thiền định hay thiền tuệ. Điều này giống như các Tông môn ở Việt Nam, tuy riêng biệt theo truyền thống pháp môn tổ khai sơn của mình nhưng vẫn cùng hệ phái Bắc Tông. Tông môn ở Việt Nam còn có nhiều chỗ khác nhau, còn trường phái của Tích Lan thì chỉ sở trường về pháp hành thôi nên có thể học hỏi trao đổi lẫn nhau và sinh hoạt chung không có gì trở ngại.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Sư, nhân dịp đầu năm, con xin kính chúc Sư luôn được dồi dào sức khỏe, vạn sự cát tường. Thưa Sư, quả vị Tu-đà-hườn có dễ chứng không ạ, khi vị đó chứng đắc thì dấu hiệu là như thế nào và vị ấy có biết không? Con xin tri ân Sư.
Không phải chỉ Đạo Quả Tu-đà-hoàn mà cả 4 bậc Thánh cũng đều có dễ có khó. Đối với người hội đủ nhân duyên thì dễ, người không hội đủ nhân duyên thì khó, chứ bản thân các quả chứng đều không khó cũng không dễ. Vị đã loại bỏ được 3 kiết sử: 1) Không còn tà kiến xem thân tâm là bản ngã, nên không còn tâm tham tương ưng với tà kiến. 2) Không còn phân vân nghi hoặc đối với thực tánh pháp nên không còn tâm si tương ưng với nghi. 3) Không còn câu nệ hình thức nghi lễ hay giới cấm nên giới tánh rất trong sạch nhưng không chấp giới tướng và các nghi lễ chế định. Vị Tu-đà-hoàn còn được gọi là “Tịnh tín bất động nơi Tam Bảo” nên Tam quy và Ngũ giới hoàn toàn trong sạch. Vị ấy thấy rõ những thực tánh pháp trên nhưng có thể không biết đó là Tu-đà-hoàn, vì đó chỉ là tên gọi mà đức Phật chế định để xác nhận trình độ chứng ngộ của hành giả chứ không phải là thực tánh pháp mà vị ấy chứng ngộ.