Câu hỏi:
Thưa Thầy Viên Minh, con cứ thắc mắc hoài là vì sao ngày trước Đức Phật không dùng phương tiện gì cũng thành đạo, sao giờ mình có nhiều phương tiện hơn đức Phật mà vẫn không thành đạo vậy Thầy?
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi thật hay, vì trong câu hỏi đã hàm chứa câu trả lời rồi!
1) Nếu hiểu phương tiện là tiện nghi vật chất thì chính tiện nghi vật chất làm cho người ta say đắm trong đó nên khó thấy ra sự thật. Phật kể rằng, thuở nọ Ma Vương thấy chư Tăng giác ngộ giải thoát nhiều bèn gây khó khăn, nhưng càng khó khăn chư Tăng càng chứng ngộ nhiều hơn. Ma Vương đổi chiến thuật giúp chư Tăng sống đầy đủ tiện nghi thì trong hàng ngũ chư Tăng bất đầu có thối đọa, nên sự giác ngộ cũng bị sút giảm.
2) Nếu hiểu phương tiện là các phương pháp tu hành do đời sau vận dụng thêm khi lập tông lập phái, thì chính vì có quá nhiều phương tiện “thiện xảo” kiểu này nên đa phần người theo bị kẹt vào sở tri chướng và sở đắc chướng mà không giác ngộ giải thoát được. Hầu hết phương tiện đều chỉ đem lại kinh nghiệm cục bộ, giống như người mù sờ voi, khiến cho người theo dễ bám trụ vào phương tiện và kinh nghiệm cục bộ mà quên mục đích giác ngộ chân lý toàn diện. Ngày xưa đức Phật chỉ thẳng nguyên lý giác ngộ giải thoát ngay nơi sự thật, không qua phương tiện nào nên nhiều vị có thể trực nhận lập tức, ngày nay càng nhiều phương pháp tu cục bộ như vậy nên càng ít người giác ngộ được chân lý một cách toàn điện.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐức Phật đã đắc quả Chánh Đẳng Giác nên tâm không còn bị ràng buộc hay lo sợ sinh già bệnh chết nữa, nhưng cái thân là do duyên sinh nên có hợp có tan, có già, có chết. Nhập diệt là thân hoại mạng chung, còn tâm Phật thì không sinh không diệt, không đi không đến… mà chỉ diệt cái thân ngũ uẩn và vì không còn bản ngã vô minh ái dục nên cũng không còn luân hồi sinh tử. Đức Phật đã nhập diệt nên không còn thuyết pháp theo cách thuyết bằng ngôn từ mà bằng cách biểu hiện chân lý trong thực tánh của pháp tự nhiên, qua đó nếu con biết lắng nghe quan sát thì vẫn chứng ngộ được như chính Phật thuyết bằng ngôn từ vậy. Những vị nghe đức Phật thuyết pháp bằng ngôn từ mà giác ngộ gọi là Thanh Văn Giác, những vị “nghe” đức Phật “thuyết” bằng biểu hiện chân lý qua thực tánh pháp gọi là Duyên Giác.
Điều này thầy chỉ nói đại khái để tạm thời lý trí con không suy đoán lung tung nữa thôi, còn muốn thấy rõ sự thật thì chính con phải tự mình lắng nghe quan sát để thực chứng sự thật mới không còn phân vân nghi hoặc nữa. Con nên nghiên cứu Phật Pháp trong hướng thấy ra chân lý để không còn bị cái ta lý trí vọng thức dẫn đến phiền não khổ đau, chứ không nên tìm hiểu những điều chỉ thuần thỏa mãn sự tò mò của lý trí vọng thức.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCâu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lời1) Ma bên ngoài gọi là Thiên ma, Tử ma; ma bên trong gọi là Ngũ uẩn ma, Phiền não ma, Pháp hành ma. Cảm thắng ma có nghĩa là cảm hóa được các loại ma trên.
2) Không dính mắc vào gia đình, của cải, vợ con, thân thể, mạng sống… cũng gọi là bố thí.
3) Bát Chánh Đạo gồm Chánh kiến, Chánh tư duy thuộc Tuệ; Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc Giới; Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định thuộc Định. Vậy khi tu Giới Định Tuệ chính là hoàn thiện Bát Chánh Đạo. Trong Siêu thế tâm, Bát Thánh Đạo mới tròn đủ.
Đúng ra thầy chỉ hướng dẫn pháp hành thôi chứ không giải đáp thắc mắc về giáo lý, những điểm về giáo lý con nên hỏi các vị giáo thọ thì đúng hơn.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐức Phật, đức Chúa, Krishnamurti và sư đều nói là vô ngã, chỉ là ngôn ngữ khác nhau thôi, vì đó là sự thật hiển nhiên. Gọi là linh hồn, bản ngã, ý thức, tư tưởng v.v… đều để chỉ một sự kiện thực tại đó là cái tâm. Do đó Phật giáo không phủ nhận những tên gọi mà chỉ phủ nhận chủ trương sai lầm (tà kiến) gán cho những tên gọi đó không đúng với bản chất thực của tâm, như chủ trương linh hồn hay bản ngã là thường hằng bất biến, là sở hữu riêng của mỗi người v.v… Vì chủ trương này chỉ tạo ra cái ta ảo tưởng. Như vậy phủ nhận một linh hồn hay một cái ta ảo tưởng không có nghĩa là phủ nhận cái tâm. Nói hồn lìa khỏi xác hay nói cái tâm biến chuyển liên tục từ tử tâm (cuti) đến tâm tục sinh (patisandhi) thì đúng, nhưng cho rằng có một linh hồn hay bản ngã tồn tại bất biến đi từ thể xác đã chết qua một thể xác mới để tái sinh là sai.
Có cái tâm nhưng không phải là bản ngã hay linh hồn bất biến mà nó có đặc tánh là biết pháp nên còn gọi là tánh biết. Khi tánh biết hoàn toàn rỗng lặng trong sáng thì nó thấy rõ bản chất của pháp nên giải thoát giác ngộ, còn khi cái ta vô minh ái dục khởi lên thì không thấy thực tánh pháp nên cái ta luôn luân hồi sinh tử. Đức Phật dùng một cái hóa thân do tâm thắng trí sinh (tưởng trong thiền định) để lên cõi trời thuyết pháp cho mẹ chứ không phải xuất hồn ra khỏi xác để bay lên cõi trời như nhiều người thường nghĩ. Vì vậy cũng không phải hồn đứng ngoài thấy xác hay hồn nhập lại xác mà đó chỉ là một hóa thân do tưởng sinh thấy lại cái báo thân thôi. Tóm lại, chính vì tất cả những hoạt động trên của tâm biểu hiện qua những tiến trình tâm sinh vật lý, trùng trùng duyên khởi, nên mới nói vô ngã, không có một bản ngã hay linh hồn bất biến.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiSau đây là vài cách giúp con nhận ra Kinh nào do Phật thuyết:
1) Kinh Phật thuyết bằng ngôn ngữ Pāli vì Đức Phật dùng ngôn ngữ này để thuyết pháp. Đó là Kinh nguyên thủy nhất của Phật giáo. Tuy nhiên Tam Tạng Pāli gồm chánh tạng do Phật thuyết, còn các chú giải vẫn do người sau dùng để giảng giải chánh tạng.
2) Kinh Luận viết bằng tiếng Sanskrit xuất hiện khoảng 200 năm đến 600 năm sau đức Phật Niết-bàn của các Phái Tiểu Thừa không còn nguyên vẹn lời Phật thuyết. và Kinh Luận Sanskrit xuất hiện 600 năm đến 1000 năm sau đức Phật Niết-bàn do chư Tổ Đại Thừa biên soạn nhằm phát triển giáo pháp đức Phật theo quan điểm triết học hoặc tín ngưỡng của họ. Các Ngữ Lục Thiền Tông xuất hiện sau 1100 năm đức Phật Niết-bàn.
3) Đức Phật đối cơ mà thuyết pháp nên tất cả Kinh Phật thuyết đều là những pháp thoại dài nhất là khoảng 1 đến 2 tiếng đồng hồ, không có Kinh nào Phật thuyết kéo dài ngày này qua ngày khác.
4) Kinh do Phật dạy thường chỉ thẳng vào sự thật để người nghe có thể nhận ra ngay. Do đó tất cả Kinh Luận nhiều tập có hệ thống luận lý học hay siêu hình học đều do người sau biên soạn rất công phu để trình bày hệ thống triết học tôn giáo của mình. Loại Kinh luận này không phải do đức Phật thuyết. Những Kinh Luận này đôi khi phù hợp với lời Phật dạy đôi lúc trái ngược lại.
5) Dù là Kinh Phật thuyết hay người sau biên soạn thì cũng đều là ngón tay chỉ mặt trăng, chỉ nên nương theo ngón tay để thấy mặt trăng, không nên chấp vào ngón tay, như chính đức Phật đã dạy trong Kinh Kalama về niềm tin đối với Kinh Điền.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiY học chứng minh rằng ăn buổi sáng – trưa tốt hơn ăn buổi chiều – tối, vì khả năng tiêu hóa và hấp thu vào buổi sáng tốt hơn buổi chiều (nhất là ban đêm). Thời gian chiều – tối không ăn giúp cho bộ máy tiêu hóa được nghỉ ngơi do đó sẽ làm việc tốt hơn mà không cần sử dụng phương pháp nhịn đói để chữa bệnh. Khi ăn no dễ sinh buồn ngủ và lười biếng, nên chó đặc nhiệm được cho ăn đủ dưỡng chất nhưng chỉ cho ăn vào buổi sáng và không cho ăn quá no thì chó mới làm công tác nhanh nhẹn và chính xác hơn.
Đức Phật không những chế định giới không ăn chiều – tối mà còn khuyên chúng ta không nên ăn no, vì ăn no sẽ khó tiêu hóa, sinh ra mệt mỏi, thiếu linh hoạt sáng suốt. Điều này tất nhiên ảnh hưởng đến sức khỏe và sự tu tập. Hiện nay nhiều người kết hợp giữa khoa học với điều giới này đã bỏ bửa ăn tối. Nếu vì công việc phải ăn thì họ ăn nhẹ và ăn trước 6 giờ chiều, vì những vật thực thu nạp vào buổi tối là nguyên nhân gây ra nhiều thứ bệnh. Người xưa nói “bệnh tùng khẩu nhập” nghĩa là bệnh do ăn mà ra. Tiết chế ăn uống vừa bớt được tâm tham mà còn giảm được bệnh tật.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐầu-đà có nguồn gốc tiếng Pāli là Dhutanga. Dhuta có nghĩa là sự tiết chế hay chế ngự, anga là chi điều vì pháp này có 13 chi điều. Pháp này được Phật chế định để giúp những người tu nào thấy mình ham mê trong tứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, dược phẩm) thì thọ các pháp đầu đà này để tiết chế lòng ham thích của mình. Tiết chế với tứ sự nói trên gồm 12 pháp đầu-đà, cộng thêm một pháp đầu-đà thứ 13 là nguyện ngăn oai nghi nằm, tức là chỉ đi, đứng, ngồi chứ không nằm. Thực ra không nằm chứ không phải không ngủ. Các vị thọ pháp đầu-đà này trong thời gian dài có thể ngồi ngủ.
Phật giáo Nguyên Thủy ở Việt Nam lấy đêm Rằm tháng Giêng (Lễ Thánh Hội) và đêm Rằm thánh Tư (Lễ Vesakha) để tổ chức thọ đầu-đà cho chư Tăng, Ni và Phật tử một đêm không nằm và không ngủ để tụng kinh, tham thiền, nghe pháp, luận đạo, chiêm bái Xá-lợi, v.v… cũng với mục đích cúng dường Tam Bảo bằng cách tu tập tiết chế sự ăn ngủ của mình trọn vẹn một đêm. Tất nhiên ai thấy mình có thể bỏ qua một đêm không ngủ để tu tập học đạo tham thiền, v.v… thì tình nguyện thọ, còn nếu thấy ngủ là cần thiết hơn thì cứ ngủ chứ không bắt buộc.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiKhoe Pháp bậc cao nhân với người chưa tu lên bậc trên (thọ đại giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni) là 1 trong 4 điều luật bất cộng trụ của vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni. Phạm luật này vị tỳ kheo bị tẩn xuất ra khỏi Tăng Chúng, không được làm tỳ kheo nữa. Khoe pháp bậc cao nhân tức là tự xưng mình đã đắc thắng trí, thần thông, Thánh quả v.v… để mưu cầu danh lợi, thuộc tà mạng. Trong trường hợp trình pháp với vị thiền sư, với thầy mình hoặc chia sẻ với những người bạn đồng tu mà nói lên sự thật mình đã thực chứng để thiền sư chỉ bảo thêm thì không phải là khoe pháp bậc cao nhân.
Đây không phải là giới luật của Sadi hay Cư sĩ tại gia, tuy nhiên khoe khoang tự nó là không tốt rồi. Bậc cao nhân thật sự thì lại sống giản dị từ tốn nên không cần khoe pháp để lòe hay lừa thiên hạ làm gì. “Hữu xạ tự nhiên hương” đâu cần phải kheo, cho nên khoe tức là gia. Các Ngài cũng biết rằng đề cao pháp cao nhân chỉ làm cho người khác tham muốn, không lo trở về giác ngộ lại thực tai nơi chính mình. Hơn nữa có nhiều pháp đã đạt được mà khoe khoang thì liền mất ngay, có lẽ vì tâm khoe khoang với pháp cao thượng không thể đi chung với nhau được.