Kính bạch Sư, hình như có một bài kinh nói về “Thất Thánh Sản” (bảy sản nghiệp Thánh), đó là cách nói rộng, có thể nói hẹp lại là “duy tuệ thị nghiệp”. Thế nào là “bảy sản nghiệp Thánh”. Kính xin sư từ bi giảng giải.
Xem câu trả lời
“Thất Thánh sản” hay “Thất Thánh tài” là Bảy sản nghiệp của bậcThánh là: Tín, giới, tàm, quý, đa văn, xả thí và trí tuệ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy, con xin nhờ Thầy giải thích cho con hiểu rõ hai ý sau đây:
1. Tu hành có cần âm thanh, sắc tướng không?
2. Quan hệ vợ chồng có gọi là tà dâm không?
Con cảm ơn Thầy! Con kính chúc Thầy dồi dào sức khoẻ.
1) Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) và trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) không có tội gì cả, nhưng khi chấp căn và trần là ta và của ta rồi sinh tà kiến và tham ái mới có phiền khổ. Tu hành chính là thấy sắc tướng, nghe âm thanh … như thực, và nếu biết sử dụng âm thanh sắc tướng để lợi mình lợi người thì cũng là tu thiện pháp, nhưng nếu bị đắm chìm trong âm thanh sắc tướng thì tự chuốc lấy khổ sầu.
2) Quan hệ vợ chồng không gọi là tà dâm.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính Sư, xin Su viết tóm tắt cho con được hiểu:
1) Sự khác biệt giữa 5 loại định mà Sư giảng trong khóa 8.
2) Tuệ danh sắc là gì?
3) Có người nói bản ngã và ngã mạn rất vị tế, rất khó bỏ, ngay cả mấy vị Thiền sư càng cao càng không thấy được bản ngã vi tế, có đúng không sư?
4) Con thấy nhiều vị tu hành lời nói không đi đôi với việc làm có phải là vì họ chưa thấy “thực tánh pháp” mà đức Phật chỉ dạy không? Con xin cám ơn sư.
1) Xin vui lòng vào mục Thư Viện xem cuốn chương 8 cuốn Sống Trong Thực Tại, sư có giảng rõ 5 loại định này.
2) Khi người hành thiền không còn thấy có cái ta hành mà chỉ có tánh biết đang thấy pháp thôi nên gọi là tuệ thấy danh sắc.
3) Đúng là bản ngã và ngã mạn rất vi tế, khó thấy khó bỏ. Đến bậc Tu Đà Hoàn mới không còn chấp ngũ uẩn là ta, và đến bậc Alahán mới hết ngã mạn. Thường những hành giả hay thiền sư dùng bản ngã để tinh tấn hành thiền thì đều càng ngày càng tăng bản ngã và ngã mạn. Nhưng hành giả hay thiền sư nào biết buông cái ta lý trí vọng thức ra để tánh biết tự thấy pháp thì bản ngã và ngã mạn dù chưa hoàn toàn đoạn tận thì cũng đoạn giảm chứ không tăng trưởng.
4) Đúng là ai chưa thật sự thấy “thực tánh pháp” thì lý thuyết và thực hành họ vẫn chưa đi đôi với nhau.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con là một Phật tử mới sơ cơ, những thắc mắc về Phật pháp của con có vẻ còn ngớ ngẩn, mong Thầy hoan hỷ chỉ bày. Con xin hỏi: Tu theo Phật có thành Phật không? Có chứng đắc không? Thầy từng nói bản ngã là do ảo tưởng mà có. Vậy khi mất rồi, ai thọ quả báo, ai đi luân hồi sanh tử trong lục đạo?
Con mong hồi âm của Thầy. Chúc Thầy nhiều sức khỏe.
1) Tu theo Phật Toàn Giác thì thành Thanh Văn Giác, còn tu như Phật Toàn Giác mới thành Phật Toàn Giác.
2) Có chứng đắc nhưng không có sở đắc. Chứng đắc là thấy ra được hay giác ngộ được, và vì tánh biết thấy pháp nên trong đó không có cái ta thấy, còn sở đắc là sở hữu được nên trong đó có cái ta của người sở hữu.
3) Khi mê muội, chính cái ta ảo tưởng tạo ra luân hồi sinh tử, nên nó cũng thấy “ta tạo nghiệp, ta gặt quả, ta luân hồi trong lục đạo”. Nhưng khi giác ngộ ra cái ta chỉ là ảo tưởng, thì nói như Thanh Tịnh Đạo: “Không có người tạo nghiêp, không có kẻ gặt quả, chỉ có dòng nghiệp báo triền miên”.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy, con xin cám ơn câu trả lời của thầy nhiều lắm, con sẽ đem ý của thầy để chuyển tải cho người kia hiểu. Con xin hỏi thầy thêm một vấn đề nữa, đó là việc ấn tống kinh, Phật tử cứ photo Bạch Y Thần Chú, rồi đem vô chùa để rất nhiều, dù không ai lấy họ vẫn mang vô hoài, vậy con phải nói với họ thế nào? Còn em con thì đi làm có bao nhiêu tiền, không dám xài, chỉ để dành in kinh Địa Tạng hết, như vậy có đúng không thưa thầy, con xin thầy chỉ dạy cho con.
Điều này có lẽ tự con đã có câu trả lời, chỉ là con muốn biết ý thầy có đúng với ý nghĩ của con không mà thôi, phải không? Ngày nay “Phật giáo” lắm khi chỉ còn là một nhãn hiệu, còn nội dung thì “thượng vàng hạ cám”, không biết chính xác là đạo gì?! Là Thần giáo? Tiên giáo? hay Ma giáo…? Khó mà xác định được! Nói tóm lại, nhiều khi Phật giáo có thể không phải là giáo pháp Bậc Giác Ngộ dạy nữa mà chỉ là bánh vẽ của tâm địa chúng sanh. Nhưng đó là quyền của chúng sanh, ai muốn vẽ sao thì vẽ, họ nghĩ sao thì họ sẽ nhận lấy hậu quả của họ, con không nên quan tâm làm gì. Con chỉ nên khám phá chân lý để sống đúng sự thật, sống lợi mình lợi người, tự giác giác tha là được, đừng nên bận tâm đến căn cơ trình độ chúng sanh. Đúng sai chỉ là tùy tầm nhìn của mỗi người, chưa phải là thực tánh chân đế mà Phật khai thị.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy cho con hỏi, Tứ Niệm Xứ và Bát Chánh Đạo có liên hệ gì với nhau không? Bát Chánh Đạo và Bát Thánh Đạo khác nhau như thế nào? Con xin cám ơn Thầy.
1) Bát Chánh Đạo và Bát Thánh Đạo đều có 8 chi giống nhau. Một người còn đang tu tập, chưa chứng ngộ Thánh Đạo thì pháp hành của họ chỉ được gọi là Bát Chánh Đạo. Và khi chứng các Thánh Đạo Lộ thì mới được gọi là Bát Thánh Đạo. Bát Chánh (Thánh) Đạo được đức Phật đề cập ngay trong bài Pháp đầu tiên tại Rừng Nai cho 5 vị Kondañña, gọi là Pháp Thoại Chuyển Pháp Luân. Và chính đức Phật dạy cho những người dân xứ Kalama rằng ở đâu có Bát Chánh (Thánh) Đạo ở đó có các Bậc Thánh.
2) Trong Tứ Niệm Xứ thì 3 yếu tố Tinh Tấn, Chánh Niệm, Tỉnh Giác đều nằm trong Bát Chánh (Thánh) Đạo tức là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Kiến mà đức Phật gọi là 3 yếu tố dẫn đầu các chi Chánh Đạo khác. Nghĩa là khi đã có Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm và Chánh Kiến tức Tỉnh Giác, thì sẽ có Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng và Chánh Định. Vì vậy, có thể nói Tứ Niệm Xứ là Pháp Môn ứng dụng 3 yếu tố dẫn đầu trong Bát Chánh (Thánh) Đạo để thể hiện toàn bộ Bát Chánh (Thánh) Đạo một cách vừa thực tế vừa vi diệu nhất.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, hàng ngày con vào đây để đọc những câu hỏi đáp, con đã học hỏi được rất nhiều. Nhờ vậy, con đã điều chỉnh được rất nhiều hiểu biết sai lầm trước đây của con. Hôm nay con kính xin thầy giải thích về Tam Minh và Lục Thông cho con được hiểu một cách đúng đắn. Con xin cám ơn thầy.
1) Tam minh thuộc về thiền tuệ là Thiên nhãn minh, Túc mạng minh và Lậu tận minh. Thiên nhãn minh là tuệ thấy rõ nhân quả nghiệp báo của chúng sanh. Túc mạng minh là tuệ thấy rõ nhiều kiếp quá khứ. Lậu tận minh là tuệ thấy rõ và chấm dứt phiền não khổ đau.
2) Lục Thông thuộc thiền định và thiền tuệ là: Biến hóa thông, Tha tâm thông, Thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, Túc mạng thông và Lậu tận thông. Biến hóa thông là thần thông biến hóa như tri trên không, trên nước, dưới đất, biến hình, tàng hình v.v… Tha tâm thông là thần thông biết được tâm ý người khác. Thiên nhĩ thông là nghe được nhiều thứ tiếng hay nghe được rất xa. Thiên nhãn thông là thần thông thấy được rất xa, và thấy được những chiều không gian khác ngoài không gian 3 chiều. Túc mạng thông là thần thông biết được nhiều kiếp trước. Năm loại thần thông trên do thiền định mà có, nên chưa chứng đạo quả vẫn có được, riêng Lậu tận thông thì phải có thêm Đạo tuệ của bậc Alahán mới có được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ Thưa thầy, con muốn hỏi lễ dâng y có nghĩa là gì và được tổ chức vào ngày nào?
Xem câu trả lời
Mùa dâng y diễn ra từ 16/9 ÂL đến 15/10 ÂL. Mỗi chùa sẽ chọn một ngày trong thời gian đó để tổ chức lễ dâng y. Trong thời đức Phật, sau 3 tháng An Cư mùa mưa (vassa) mà người Hoa gọi là Nhập Hạ (phiên âm từ chữ vassa) chư Tăng đi lượm vải quấn tử thi ở các nghĩa địa để đem về may y mà mặc. Về sau khi tín đồ đông đảo hơn, họ thấy chư Tăng đi lượm vải dơ như vậy quá cực khổ nên họ dâng vải để các vị may y và làm lễ thọ y trong vòng một ngày phải xong. Việc may y và thọ y trong vòng một ngày cũng rất phiền toái nên về sau thiện nam tín nữ lại may y sẵn để dâng chư Tăng, nhờ đó chư Tang có thể thọ y dễ dàng hơn. Lễ dâng y và thọ y như vậy gọi là lễ kathina, bên Bắc Tông gọi là lễ dâng Pháp Y.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thành tâm kính đảnh lễ Thầy!
Kính bạch Thầy!
Con là Tăng sĩ Bắc Tông, sau khi tiếp xúc những lời dạy của Thầy con suy ngẫm nhiều và có sự thay đổi. Con ít cầu nguyện, và không trì chú như trước kia. Con không tọa thiền nhiều, chỉ tĩnh tọa khi nào thấy tiện. Con không đặt ra những mục tiêu hay tiêu chuẩn nào cho mình, chỉ nỗ lực làm tốt công việc đang làm… Như vậy con đúng không bạch Thầy?
Chung quanh con nhiều người tu Tịnh Độ mong được vãng sanh Cực Lạc. Các vị ấy rất hiền và con thật sự kính trọng. Những băng dĩa, những câu chuyện mầu nhiệm của hiện tượng vãng sanh thường được bàn đến trong câu chuyện ở đây. Con thấy mình dường như lạ với những gì mình đang theo. Con tin Phật lắm nhưng sao con không thiết tha cầu sanh Tịnh Độ. Tự nhiên như vậy, ngay cả khi con khuyên người khác tin Cực Lạc! Con tự mâu thuẫn rất nhiều. Con kính mong Thầy dạy cho con biết con nên làm sao. Con thành tâm tri ân Thầy!
1) Con thực hành như vậy là đã có tiến bộ. Khi đã vào được chỗ cốt lõi của Phật Pháp thì sống càng giản dị càng uyên thâm, đến nỗi Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp như thế nào thì thấy như vậy, đừng để cái ta tham ưu xen vào. Do đó thiền cũng nói “Bình thường tâm thị đạo”, “Xúc mục vô phi thị đạo”, “Đương xứ tức chân”… Con sống như thế là rất tốt.
2) Thân Loan, vị Tổ của Chân Tông Nhật Bản, trong cuốn Thán Dị Sao nói rằng dù niệm Phật mà đọa vào địa ngục ngài vẫn niệm vì ngài tin rằng niệm Phật có thể vào được bản tâm thanh tịnh, mà Tịnh Độ Tông Trung Hoa gọi là vãng sanh Tịnh Độ. Trong Kinh Tạng Pāli đức Phật cũng dạy khi bản tâm thanh tịnh thì thấy các pháp đều thanh tịnh. Một khi đã niệm Phật đến chỗ nhất niệm thanh tịnh thì dù ở cực lạc hay cực khổ gì vẫn “Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật Độ tịnh”. Do đó tâm đã thanh tịnh thì cực lạc hay cực khổ gì cũng thanh tịnh vô ngại.
3) Theo Thiền Vipassanā và Thiền Tông thì từ nhất niệm phải đến vô niệm mới thật sự chánh niệm. Do đó Tịnh Độ Tông nói niệm Phật đến nhất niệm phải sau khi chết mới được vãng sanh. Thiền Vipassanā và Thiền Tông giải thích điều này là: Phải chết đi cái ta nhất niệm thì mới vô niệm (vãng sanh) được. Và có vô niệm (vãng sanh) mới vào được cõi Tịnh Độ (= Chánh niệm: trở về với tánh thanh tịnh của thực tái hiện tiền). Và ở đó được đức Phật A-di–đà tiếp dẫn (= được sự tĩnh giác của tánh biết soi sáng). Vậy con đang tu tập chánh niệm tỉnh giác là mục đích tối hậu của niệm Phật thì còn nghi ngại gì nữa?