Thưa Thầy, hôm nay ngày 17/11 âm lịch, đang là lễ hội vía Đức Di Đà, các chùa tổ chức lớn lắm như chùa Hoằng Pháp ở Thành phố HCM. Các chùa Tịnh độ cũng làm lễ trang nghiêm lắm. Con xin hỏi Thầy là vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, có phải là giải thoát hết sinh tử luân hồi như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không Thưa Thầy? Và Đức Phật Di Đà có thật không, sao con không thấy tiểu sử của Ngài như Phật Thích Ca?
1) Theo Tịnh Độ Tông thì vãng sanh Tây Phương rồi còn phải trải qua Cửu Phẩm Liên Hoa (tức 4 Đạo, 4 Quả và 1 Niết-bàn) nữa mới thành Chánh Đảng Giác như đức Phật Thích Ca.
2) Đức Phật A-di-đà là biểu tượng cho Tánh Giác (Buddhacarita) của mỗi người chứ không phải nhân vật lịch sử nên làm sao có tiểu sử được. Niệm Phật tức quay về với Tánh Giác, niệm Phật đến nhất niệm thanh tịnh tức vãng sanh Tịnh Độ, khi đã thanh tịnh thì Tánh Giác sẽ soi sáng tức đức Phật A-di-đà tiếp dẫn. Vì vậy “lễ hội” lớn nhất là nhất niệm thanh tịnh, chứ không phải hình thức tổ chức bên ngoài.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy con đã đọc phần Thầy trả lời cho con. Con xin sám hối với Thầy là con vẫn chưa thông lắm. Con nghĩ nếu như có linh hồn, có cõi siêu hình và những người ở không gian 3 chiều mà Thầy giải thích thì khi một người bị tai nạn xe đã chết đi bộ não và sống một đời sống thực vật, không biết gì, ai làm gì thì làm. Theo con nếu như có linh hồn hay thần thức thì tạo sao mất đi bộ não thì thân này vẫn tồn tại mà lại không biết gì hết. Đợi đến khi tim ngừng đập và chết hẳn rồi thì linh hồn mới đi tùm lum và quậy quọ. Nếu thật sự có thần thức thì lúc không còn bộ não thì vẫn biết chút chút chứ sao không biết gì hết. Con xin Thầy giải thích cho con tường tận. Con xin cảm niệm công đức Thầy ạ.
Xem câu trả lời
Những cơ năng trong con người chỉ là công cụ để tâm thức hoạt động mà thôi. Khi các công cụ này bị tê liệt thì tâm thức không thực hiện được các chức năng của mình qua các công cụ đó chứ nó không “chết”. Trên lâm sàng thì bên ngoài tưởng như nó không hoạt động nhưng bên trong nó vẫn “biết”. Khi mạng sống chấm dứt thì nghiệp lực sẽ tái hiện dưới dạng tâm thức tái sanh. “Người vô hình” chính là dạng tâm thức tái sanh đó.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, con có người bạn theo học với một thầy Mật tông. Vì thầy này dạy rằng không nên đến chùa ăn cơm vì đó là tiền cúng dường của bá tánh, nếu mình ăn thì phải mang nợ của bá tánh và kiếp sau phải trả nợ này. Trường hợp bất đắc dĩ phải dùng cơm ở chùa thì phải cúng vào thùng phước sương. Vì vậy người bạn này khi đến chùa nào cũng không dám dùng cơm hay “lộc Phật”. Xin thầy chỉ dạy cho con về vấn đề này.
Xem câu trả lời
Vị ấy nói cũng đúng, tuy nhiên đó là trường hợp đến chùa chỉ để lo ăn, còn nếu đến chùa để học Đạo, làm công quả, làm phước,… mà chùa cho ăn thì đâu có sao.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ cám ơn thầy đã giải đáp câu hỏi về kinh Vakkali của con. Diễn giảng của thầy về đức kham nhẫn của tỳ kheo Vakkali không tương đồng với kinh văn câu số 9 khi ngài Vakkali trả lời câu hỏi của đức Thế Tôn như sau:
“Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với Tôn giả Vakkali:
– Ông có kham nhẫn được không? Ông có chịu đựng được không? Có phải khổ thọ tổn giảm, không tăng trưởng? Có phải có những dấu hiệu tổn giảm, không phải tăng trưởng?
– Bạch Thế Tôn, con không có thể kham nhẫn! Con không có thể chịu đựng! Khổ thọ kịch liệt tăng trưởng nơi con, không tổn giảm. Có những dấu hiệu tăng trưởng, không tổn giảm.” (Bản dịch Hòa thượng Minh Châu)
Trả lời của Ngài Vakkali là đương xứ, theo con hiểu nó không phù hợp với câu trả lời của thầy. Con kính mong được sự giảng dạy thêm của thầy đầy lòng từ bi hỷ xả. Con kính lễ thầy.
Xem câu trả lời
Thầy đã nói không thể kham nhẫn ở đây ám chỉ quá sức chịu đựng về phương diện cảm thọ chứ không phải phương diện tâm lý. Trong khi thân vị ấy không thể chịu nổi thọ khổ tăng lên kịch liệt thì tâm vị ấy vẫn không động (tức nhẫn nại không khởi tâm sân). Kinh Vakkali đã trình bày rất rõ con nghi ngờ gì nữa? Điều này chính thầy đã chứng nghiệm được khi bị một cơn đau kịch liệt không chịu nổi thì tâm lại vắng lặng một cách vô cùng kỳ diệu. Vừa rồi cũng có một Phật tử chứng nghiệm được điều đó. Điều này con chỉ có thể hiểu khi chính con trải nghiệm qua chứ không thể lý luận hay suy đoán được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
“Namo Tassa Bhagavato Arahato Samma Sambuddhassa”
Thưa Thầy, Thầy giải thích giùm con từng chữ trong câu này với, thầy có thể phân tích cả động từ, tình từ, danh từ của từng chữ trong câu không ạ. Con đọc câu này thấy vui lắm, đôi khi con còn hát được nữa hát chẳng theo thể loại nhạc nào cả. con tìm google nhưng thấy mỗi nơi giải thích một kiểu, con chẳng biết tin theo kiểu nào.
Kính Thầy, nhân ngày nhà giáo Việt Nam con chúc Thầy luôn mạnh khỏe và an lạc.
– Sambuddho : đấng Toàn Giác, đấng Biến Tri Đẳng Giác (danh từ) Dịch nghĩa:Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, kinh Vakkali có nội dung:
– Tỳ kheo Vakkali lâm trọng bệnh, không kham nhẫn nỗi khổ.
– Được đức Phật đến thăm và tỳ kheo Vakkali xác định là đã hoàn toàn tin và hiểu: thân tâm (5 uẩn) là vô thường, khổ, vô ngã. Tuân thủ giới luật trong sạch.
– Tỳ kheo Vakkali chọn cách giải thoát, có phải bằng tự sát không? Kinh văn nói 2 lần về con dao bên tảng đá, thi thể co quắp sau khi chết.
– Đức Phật xác định, thiện nam tử Vakkali đã nhập Niết-bàn một cách hoàn toàn (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu). Vậy Ngài Vakkali đã đắc quả A-la-hán trước khi Niết-bàn.
– Quyên sinh (tự tử) là phạm giới sát sanh, bậc Thánh A-la-hán mà còn phạm giới và không kham nhẫn nỗi khổ thân thì 10 ba-la-mật đã tròn đủ chưa mà được đức Thế Tôn thọ ký đã giải thoát hoàn toàn?
– Kinh Vakkali có nhất quán với tôn chỉ tùy duyên, thuận pháp, vô ngã, vị tha mà thầy khuyên chúng con chọn làm lẽ sống?
Theo tinh thần không quá tôn trọng kinh điển và cần có thái độ nghi ngờ, vì có sự mâu thuẫn với nguyên lý đạo Phật, con kính mong được thầy chỉ giáo. Kính bái thầy.
Paris ngay 20/11/2011
1) Tỳ kheo Vakkali đã được đức Phật xác nhận đắc quả Alahán trước khi Niết-bàn là đúng
2) Vakkali sau khi đắc quả Alahán thấy rằng thân bệnh hoạn này không còn giá trị gì nữa mà chỉ đem lại phiền phức đức Phật và tứ chúng nên hủy nó đi là tùy duyên thuận pháp. Việc tự hủy này không do tham sân hay thiếu kham nhẫn như một người tự tử bình thường nên vô tội. Không phải phạm giới nào cũng có tội.
3) Không kham nhẫn ở đây không có nghĩa là không nhẫn nại mà là không chịu đựng nổi. Chịu đựng có tính sinh vật lý còn khẫn nại có tính tâm lý là 2 sự kiện khác nhau. Nói cách khác là thân không chịu đựng được nhưng tâm vẫn nhẫn nại. Giống như vị đạo sĩ tiền thân đức Phật bị nhà vua cắt xẻo tất nhiên thân xúc thọ khó mà chịu được nhưng tâm vẫn nhẫn nại. Việc tự tử của Vakkali không phải vì không nhẫn nại được mà chỉ là bỏ đi một vật vô ích cho mọi người mà thôi. Đó là quyết định hoàn toàn sáng suốt.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, con nghe một số người nói Phật tử tại gia không được thờ Phật Thích-ca mà chỉ được thờ Quán Thé Âm Bồ-tát thôi, Phật Thích-ca chỉ có chư Tăng Ni ở chùa mới được thờ. Như thế có đúng không, mong thầy giải thích cho con.
Tất nhiên là không đúng. Quan niệm này lý luận rằng Phật Thích Ca dạy giải thoát giác ngộ quá cao nên chỉ có Tăng Ni may ra mới thực hiện được, còn người Phật tử tại gia chỉ mong sống sao cho tốt để được sức khỏe, làm ăn phát đạt, có khổ thì cầu chư Bồ-tát cứu giúp cho tai qua nạn khỏi là được, do đó chỉ nên thờ Bồ-tát Quan Âm mà thôi. Thực ra, mỗi người sinh ra vốn có tất cả những yếu tố mà chư Phật và Bồ-tát có. Ai thấy ra và phát huy được những yếu tố đúng tốt thì được an lạc, ai không thấy ra mà sử dụng sai xấu thì tự chuốc họa vào thân, do đó Phật giáo lấy tự giác làm đầu chứ không ỷ lại vào tha lực.
Quan niệm thờ cúng này xuất phát từ sự hiểu lầm cụm từ giác ngộ giải thoát. Giác ngộ giải thoát là một quá trình điều chỉnh nhận thức và hành vi cho hoàn hảo. Đức Phật Thích Ca dạy khi nhận thức đúng với nguyên lý của pháp và hành vi tốt không hại mình hại người thì tự thấy hạnh phúc an lạc và đem lại hạnh phúc an lạc cho mọi người, chứ Ngài không dạy khấn vái cầu xin tha lực của Thần linh hay Bồ-tát để đạt được điều mình mong muốn. Do vậy chủ trương thờ Bồ-tát như một vị Thần hộ mệnh hơn là phát huy tánh thanh tịnh sáng suốt để tự giác giác tha, lợi mình lợi người là một quan niệm sai lầm.
Bồ-tát là những ai lấy sự giác ngộ (tự giác, giác tha) làm lẽ sống của mình (Bodhi-satta). Có 2 quan niệm Bồ-tát: Một là theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì những ai đang thể hiện sự tu tập tự giác giác tha để giác ngộ thành Phật đều gọi là Bồ-tát, do đó vị Bồ-tát phải thực hiện 10 pháp Ba-la-mật (Ba-la-mật bậc hạ thành Thanh Văn Phật, bậc trung thành Độc Giác Phật, bậc thượng thành Toàn Giác Phật). Hai là Phật Giáo Phát Triển có thêm một nghĩa nữa là những bậc đã giác ngộ thành Phật hay Alahán rồi mới phát nguyện trở lại cứu độ chúng sanh gọi là Bồ-tát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy, cho con hỏi trong kinh Nguyên thủy đề cập đến sự xuất hiện của Đức Phật thời quá khứ, vị lai, hiện tại như thế nào?
Trong kinh có đề cập đến Đức Phật A-di-đà không?
Kinh có cho rằng các vị A-la-hán sau khi nhập Niết Bàn lại có thể thành Phật để giáo hóa chúng sinh được không?
Mong thầy có thể trả lời giúp con, và chỉ cho con những bộ sách đề cập đến vấn đề này như nói về các cõi giới, nói về tích của Đức Phật, các vị A-la-hán. Con xin cảm ơn thầy.
1) Trong Tam Tạng Pāli không có đề cập đến Phật A-di-đà.
2) Muốn biết về Phật quá khứ, hiện tại, vị lai thì đọc Phật Sử (hay Chánh Giác Tông: Buddhavamsa), còn muốn biết về hành trạng của các vị Alahán thì đọc Trưởng Lão Tăng Kệ và Trường Lão NI Kệ.
3) Khi được hỏi một vị Alahán sau khi nhập diệt còn hay không còn, đức Phật trả lời là 4 phạm trù còn, không còn, vừa còn vừa không còn, không còn không không còn đều không áp dụng được. Đơn giản chỉ vì đó là phạm trù của khái niệm lý trí, không thể áp dụng cho cái vượt ngoài lý trí.