Thưa thầy, con đọc trong kinh Phật nói đến các loài dạ-xoa, ma-hầu-la-già, phi nhơn, ngạ quỷ… vậy chúng sống ở đâu, trong thế giới này hay là ở trong thế giới khác chúng ta? Nếu trong thế giới cùng chúng ta sao chúng ta không cảm nhận về những chúng sinh này đang hiện hữu? Thưa thầy, trong chư thiên cũng chia ra nhiều bậc khác nhau còn có những thân hình xấu đẹp khác nhau? Tại sao khi làm thiện nghiệp được sinh về cõi trời thì lại còn có người thọ thân xấu?
Thưa thầy trong kinh đức Phật hay nói đến cây đề hồ. Vị của cây này như thế nào và có ảnh hưởng như thế nào trong văn hóa người Ấn độ?
Thưa thầy, con không hiểu tại sao trong kinh Trường bộ đức Phật dạy cho vị Vesattha về sự hình thành trái đất và con người ra đời cũng khác nhau, như vậy nó có đi ngược lại với sự khám phá của khoa học trong hàng thế kỉ trước không?
Tại sao đức Phật lại nói Như Lai đồng nghĩa với pháp thân, phạm thân, pháp thể, phạm thể, chỗ này con không hiểu mong sư giải đáp giúp con.
Con xin chân thành biết ơn sư. Chúc sư sức khỏe dồi dào.
Xem câu trả lời
Cách đọc kinh điển của thầy là thấy điều gì thiết thực cho giác ngộ giải thoát có thể ứng dụng trong đời sống để lợi mình lợi người thì thực nghiệm ngay, điều gì chưa hiểu được hoặc chưa cần thiết thì cứ để đó, không vội tin không vội bỏ, chừng nào thấy được hiểu được rõ ràng mới đem ra thực hiện. Khi đọc đến những điều trong kinh mà con hỏi thầy không quan tâm lắm vì nó chỉ đáp ứng sự tò mò hơn là giải quyết vấn đề sinh tử phiền não khổ đau như trong kinh Tứ Diệu Đế hay Tứ Niệm Xứ v.v… Thầy chỉ có thể chia sẻ trải nghiệm tu tập của mình với những người có nhu cầu sống đúng tốt và khám phá chính mình để giác ngộ giải thoát mà thôi. Thành thật xin lỗi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa sư,
Thưa sư, con có thắc mắc về thiền. Đối với bậc Thánh trong tứ quả Thánh thì A-la-hán sẽ được chia làm hai là A-la-hán có thần thông và A-la-hán không có thần thông. Những vị A-la-hán có thần thông là do họ tu tập thiền định và hạnh nguyện, quán tưởng, và có công phu tu tập nhiều. Thưa thầy, thầy có thể nói rõ cho con về điều này trong thiền trải qua 11 bậc khác nhau và làm sao khi đi vào thiền thì phải tầm, tìm kiếm đề mục và đi thuần thục thì phải quán tưởng như đất, nước, gió, lửa, biến hư không thành mặt đất để đi, và mặt đất thành hư không để vị đó đi?
Thưa sư, tại sao trong mỗi câu trả lời sư thường giải đáp ngắn gọn vậy? Điều này sẽ dễ gây ra sự khó hiểu cho người hỏi vì một vấn đề được hỏi nhưng người trả lời quá cao siêu khiến họ khó hiểu hỏi lại thì không tiện. Mong sư giải đáp giúp con tỏ ngộ.
Thưa sư còn một vấn đề, trong quá trình Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc vào Việt Nam, trải qua một thời kì khá dài và đã bị chế tác đi rất nhiều, phóng tác ra quá nhiều như kinh Vô lượng thọ, kinh Duy Ma Cật, con nghe nói trong Phật giáo Nguyên thủy không có những kinh điển này. Nhưng thưa sư, trong kinh Vô lượng thọ, cứ niệm một tiếng A-di-đà là diệt biết bao nhiêu tội lỗi chỉ trừ 5 tội ngũ gián, khi sắp mạng chung niệm 10 tiếng có Phật tới đưa về sanh ra tại quốc độ rồi thành Phật mà không phải khó nhọc như đức Phật đã trải qua để tu chứng nên có vô số người đã tu theo pháp môn tịnh độ này, các chùa cũng khuyến khích tu theo. Con muốn hỏi thầy việc này thực hư là sao, con muốn hiểu rõ để đúng như vậy thì tu theo không thì từ bỏ.
Con cứ thắc mắc không biết kinh điển Phật thuyết ra là bộ nào, tại sao con cứ thấy có quá nhiều kinh sách mà sư thầy này nói đúng tốt, thì thầy kia lại nói không phải kinh do Phật thuyết? Con chưa có trí tư, trí tu lại không có học thức chuyên sâu nên không hiểu được, dễ bị nhầm lẫn. Mong thầy giải đáp giúp con tránh sự nhầm lẫn này.
Con cám ơn sư rất nhiều.
Những câu trả lời của thầy chỉ mang tính gợi ý để mọi người cùng chiêm nghiệm, khám phá, học hỏi chứ không muốn đưa ra khuôn mẫu nào. Vì mỗi người phải tự mình giác ngộ nên đức Phật cũng chỉ khai thị thôi. Còn thầy chỉ chia sẻ chứ không hề có ý chỉ đạo. Người xưa nói “đa ngôn đa quá” nên thầy chỉ nói vừa đủ để mọi người cùng khám phá hơn là nói nhiều mà bị hiểu sai.
Con chịu khó đọc lại những câu hỏi đáp trước đây, trong đó có nhiều câu đã trả lời những câu hỏi tương tự như con vừa hỏi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Dạ kính bạch thầy, xin thầy cho con hỏi, một bậc Thánh Tu-đà-hoàn theo như Kinh nói thì dầu họ có dễ duôi cũng chỉ trong 7 kiếp là đắc A-la-hán Thánh quả. Vậy dễ duôi của họ là gì? Và có thường bị thất niệm không? Kính mong thầy chỉ dạy, con thành kính tri ân thầy.
Xem câu trả lời
Tu-đà-hoàn có nghĩa là Nhập Lưu, tức đã trở về với pháp thực tánh chân đế của một bậc Thánh. Giống như một người lạc đường (chúng sinh) đã tìm về được nhà (Nhập Lưu), vì vậy dù người ấy có đi ra ngoài dạo chơi thì cũng không còn bị lạc nữa. Dễ duôi đây là còn dục ái, sân, sắc ái, vô sắc ái, trạo cử, ngã mạn và vô minh, vì vậy vẫn còn thất niệm. Dĩ nhiên là không phải dễ duôi hay thất niệm như những người phàm tục.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy, con nghe trong Vi tiếu có câu “Thị pháp trụ pháp vị” con không hiểu là gì, mong thầy giải thích giúp con.
“Thị pháp trụ pháp vị” nghĩa là thấy pháp đúng với thực tánh ngay nơi sự hiện diện trong không gian (vị) và thời gian (thời) của nó, như nó đang là, chứ không phải như con nghĩ là, tưởng là hay cho là. Kinh Tứ Niệm Xứ nói “niệm thân trên thân, niệm thọ trên thọ, niệm tâm trên tâm, niệm pháp trên pháp” tức là thấy thực tánh của thân, thọ, tâm pháp trên chính bản chất thực của nó, đó chính là thị pháp trụ pháp vị vậy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, dạ con đã quy y rồi nhưng do con mới biết về Phật pháp nên con muốn tìm hiểu rõ hơn… Con xin hỏi thầy: Trong Phật giáo có bao nhiêu tông phái? Những tông phái đó có đặc điểm gì khác nhau không ạ? Con xin cám ơn Thầy ạ!
Vậy là con mới làm lễ quy y ở đâu đó và với ai đó chứ chưa phải thật sự quy y Tam Bảo. Khi nào con thật sự biết rõ Phật Pháp Tăng là gì, vì sao phải quy y, quy y thì phải thể hiện những điều gì trong đời sống hàng ngày và con chấp nhận sống theo như vậy thì mới thật sự là quy y. Xem ra con chưa thông hiểu Phật Pháp bao nhiêu sao gọi là “đã” quy y. Quy y là một thái độ sống sáng suốt, định tĩnh, trong lành từng giây từng phút trong hiện tại cho đến trọn đời thì làm sao mà “đã quy y rồi” được?.
Phật Giáo khi đức Phật còn tại thế cho đến 100 năm sau đức Phật nhập diệt thì chỉ có một thôi. Từ 100 năm sau đức Phật nhập diệt bắt đầu có hai khuynh hướng: Một là khuynh hướng bảo tồn tính nguyên thủy của giáo lý đức Phật gọi là Phật Giáo Nguyên Thủy. Hai là khuynh hướng phát triển giáo lý đức Phật gọi là Phật Giáo Phát Triển. Từ 200 năm đến 600 năm sau đức Phật nhập diệt Phật Giáo chính thức chia ra làm khoảng 18 bộ phái lớn nhỏ. Trong 18 bộ phái này vẫn có hai khuynh hướng rõ rệt, nhưng chỉ có một bộ phái chủ trương giữ nguyên giáo lý ban đầu của đức Phật đó là bộ phái của những vị trưởng lão nên gọi là Trưởng Lão Bộ hay Thượng Tọa Bộ (Theravada) còn các bộ phái khác (có tên khác nhau như Nhất Thiết Hữu Bộ, Tuyết Sơn Bộ…) không ít thì nhiều đều có tư tưởng phát triển, phần nhiều đó là khuynh hướng của những Tăng Ni trẻ hơn trong giáo đoàn nên thường được gọi chung là Giáo Thọ Bộ (Achariyavada) hay Đại Chúng Bộ (Mahasanghikavada). Đến 600 năm sau đức Phật Niết-bàn, Phật Giáo Đại Thừa ra đời, khởi đầu là Tổ Mã Minh với tác phẩm Đại Thừa Khởi Tín Luận, và từ đó danh từ Đại Thừa và Tiểu Thừa mới bắt đầu xuất hiện, những phái phát triển trước khi có Đại Thừa đều được gọi là Tiểu Thừa. Từ khi Phật Giáo Đại Thừa phát triển mạnh với những vị luận sư nổi tiếng như Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước… thì các bộ phái Tiểu Thừa yếu dần và mất hẵn. Như vậy cuối cùng vẫn còn lại hai khuynh hướng: bên Nguyên Thủy còn lại Thượng Tọa Bộ và bên Phát triển chỉ còn Phật Giáo Đại Thừa mà thôi.
Phật Giáo Đại Thừa lại chia làm 10 tông phái lớn gọi là thập đại tông phái, trong đó có Không Tông, Hữu Tông, Luật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, Mật Tông (Lạt-ma Giáo), Hoa Nghiêm Tông, Pháp Hoa Tông (Thiên Thai Tông) v.v… Hiện nay ở Việt Nam có 2 tông phái chính: Nam Tông tức Phật Giáo Nguyên Thủy và Bắc Tông nói chung gồm có Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Mật Tông và Phật Giáo Khất Sĩ do Tổ Minh Đăng Quang sáng lập tại Nam Bộ.
Về tận cùng của Phật Pháp thì tất cả các tông phái đều có một cốt lõi chung đó là chân lý giác ngộ giải thoát, nhưng khác nhau về hình thức tổ chức, nghi lễ, biện pháp tu tập. Theo như Hòa Thượng Thích Minh Châu, vị tiến sĩ Phật học đầu tiên của Việt Nam du học ở Ấn Độ và Giáo sư Radhakrishna người Ấn Độ đầu tiên dạy giáo lý đức Phật tại các viện đại học phương Tây đề nghị thì nên nghiên cứu Phật Giáo Nguyên Thủy trước để làm gốc rồi sau khi nắm vững cốt lõi Phật Pháp thì có thể bổ sung bằng cách nghiên cứu sự vận dụng của Phật Giáo các tông phái phát triển. Thầy cũng nhất trí phương thức này, còn theo tông phái nào thì tùy nhân duyên và trình độ của người tu học.
Tiện đây thầy cũng xin nhắc lại mục đích của HỎI ĐÁP trong trang web này là thầy chỉ giúp hướng dẫn tu tập thôi, nếu hỏi những vấn đề quá rộng mang tính nghiên cứu hoặc thỏa mãn sự tò mò của lý trí thì thầy sẽ không trả lời.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy, ở nhà bố mẹ con có treo ảnh Phật trong nhà. Có người đến nhà con chơi nói với bố mẹ con là nếu hàng ngày không đọc kinh niệm Phật thì không được treo ảnh Phật ở nhà, phải mang ảnh Phật ra chùa gần nhà để, nếu không trong gia đình sẽ gặp chuyện không tốt. Bố mẹ con không tin điều đó và vẫn treo ảnh Phật. Vậy bố mẹ con làm vậy có đúng không ạ? Theo thầy thì bố mẹ con làm như thế nào cho đúng? Con xin cám ơn thầy ạ!
Xem câu trả lời
Nếu đã có tâm treo ảnh Phật trong nhà tức ít nhiều cũng có tin yêu Phật, như vậy là tốt rồi. Nếu biết nghiên cứu Phật Pháp để thấy ra chân lý của vạn pháp và sống đúng tốt theo chân lý đó nữa thì quý hóa vô cùng. Tụng Kinh niệm Phật chỉ là một pháp môn tu trong vô lượng pháp môn tu chứ không phải là điều kiện tất yếu bắt buộc. Nếu một người tu theo pháp môn tịnh khẩu, hoặc thiền định, thiền tuệ, kiến tánh, mặc chiếu v.v… thì làm sao tụng Kinh niệm Phật được? Nhiều người tu theo pháp môn tụng Kinh, niệm Phật, ăn chay thì cho là mình mới tu còn người khác không làm như vậy là không tu, đó gọi là cố chấp pháp môn. Ngài Huệ Năng nói “Phật Pháp bất ly thế gian pháp”, nghĩa là nếu biết sử dụng đúng tốt thì tất cả pháp thế gian đều là Phật Pháp chứ không phải pháp môn “của tôi” mới là Phật Pháp. Người Phật Tử chân chính cần thấy rằng điều gì đúng tốt đều là chánh đạo dù không phải Phật nói, điều gì sai xấu dù là người theo Phật nói cũng đều là tà đạo.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy. Thầy cho con hỏi là ở bên Đại Thừa họ nói Phật A-di-đà ra đời trước Đức Phật Thích Ca, họ nói thế có đúng không ạ? Theo con biết Đức Phật Thích Ca nói rằng sau khi Ngài nhập diệt chỉ có một vị Phật ra đời đó là Phật Di Lặc, vậy hiện nay ở Đại thừa họ thờ Phật Di Lặc là sao ạ? Con kính đảnh lễ Thầy!
Phật A-di-đà là biểu tượng cho Tự Tánh Sáng Suốt nơi mỗi người mà Đại Thừa gọi là Phật Tánh nên mới có câu “Tự tánh Di-đà duy tâm Tịnh Độ” nghĩa là tự tánh sáng suốt là Phật A-di-đà (Amitabha=Vô Lượng Quang), còn tâm mình tịnh chính là Tịnh Độ. Nói Phật Di-đà có trước Phật Thích Ca là ý nói rằng nhờ có tánh biết sáng suốt trước mới thành Phật sau, chứ thành Phật trước hay sau đâu có thành vấn đề. Còn người ta thờ Phật Di Lặc là mong rằng tương lai được Ngài độ cho.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy, con đọc kinh Dược Sư thấy trong 12 lời nguyện của Phật Dược Sư, có lời nguyện thứ 8 viết: “Cho phụ nữ tái sinh thành nam giới”. Con thành tâm mong thầy bớt chút thời giờ giảng giải cho con và các Phật tử được rõ lời nguyện này. Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Trong Phật giáo Nguyên Thủy không có Phật nào chuyên hành nghề Dược Sư mà tất cả chư Phật đều là Dược Sư vì quí Ngài đều có khả năng nói rõ bệnh phiền não của chúng sanh và chỉ cho sự chấm dứt bệnh khổ ấy như nhau cả.
Thực tế hơn nữa, nếu mỗi người biết sử dụng khả năng chánh niệm tỉnh giác ngay nơi tánh giác của mình thì có thể tự cứu mình ra khỏi mọi căn bệnh phiền não khổ đau. Cho nên tánh biết trong sáng của mỗi người cũng là một đức Dược Sư sẵn có trong mình vậy.
Người xưa trọng nam khinh nữ nên thường xem nữ đồng nghĩa với mềm yếu (liễu yếu), và xem nam đồng nghĩa với mạnh mẽ (rường cột). Những Kinh Luận do các Bộ Phái viết ra vào thời đó cũng dùng hình ảnh nam nữ theo nghĩa này. Vậy đức Dược Sư có thể “cho phụ nữ tái sinh thành nam giới” có nghĩa là tánh giác nơi mỗi người có thể biến tính buông lung mềm yếu thành tinh tấn dũng mãnh. Vậy mỗi người nên thường tinh tấn chánh niệm tỉnh giác để phát huy khả năng Dược Sư trong chính mình chứ không nên làm phiên đức Dược Sư ở bên ngoài.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Tại sao Thầy nói “Chính ý niệm của con người chia cắt manh mún Sự Thật thành cái của tôi và của anh mà thôi.” Vậy mà người ta đến xin quy y và xin pháp danh thầy vẫn cho họ? Chỉ cần sự thật thôi, cần gì đến Phật giáo với lại quy y hình thức?
Xem câu trả lời
Cám ơn ý kiến rất hay! Nhưng quy y có nghĩa là chấp nhận trở về với sự thật chứ không phải là một hình thức kết nạp tín đồ. Giống như một người lạc đường đến hỏi một hướng đạo sinh đâu là đường về nhà, tất nhiên anh hướng đạo có bổn phận phải chỉ đường cho người ấy về đến nơi đến chốn. Cũng vậy, người không biết sự thật muốn được chỉ dẫn để thấy sự thật, vậy ai thấy cũng đều có thể chỉ dẫn cho họ. Chân lý chỉ có một, còn người chỉ đường tùy theo vị trí của người hỏi mà chỉ, do đó mới có nhiều tôn giáo chỉ hướng khác nhau tùy theo vị trí, nhưng chung quy vẫn chỉ ra cùng một sự thật. Một người xin quy y Tam Bảo có nghĩa là người đó chấp nhận hướng chỉ của Phật giáo, còn người xin rửa tội có niềm tin nơi Chúa Ba Ngôi có nghĩa là chấp nhận hướng chỉ của Thiên Chúa giáo, đó chỉ là quyền tự do chọn hướng đến chân lý mà thôi. Bây giờ một người đang xin thầy hướng dẫn trở về với sự thật thì thầy còn làm gì hơn là cho quy y, và một người xin Linh Mục rửa tội thì còn làm gì hơn là rửa tội cho người ấy? Nhưng nếu một nhà Sư hay một Linh Mục cho rằng chỉ có hướng mình chỉ mới đúng còn hướng kia là sai thì đó chính là ý niệm chia cắt manh mún.