Câu hỏi:
Thưa thầy con muốn hỏi về định vô lậu, thầy giảng cho con với ạ.
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDanh sách các chủ đề phổ biến
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐịnh vô lậu là định vô vi, vô ngã, tự nhiên khi thân tâm thư giãn buông xả chứ không do sự nỗ lực tác thành của bản ngã như định hữu lậu – hữu vi, hữu ngã.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiJina là sự chiến thắng hoặc người chiến thắng, ám chỉ đức Phật hoặc sự chiến thắng của đức Phật.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiDuyên mà con nói hàm ý về sự kết mối quan hệ, duyên này được tạo ra bởi ý muốn chủ quan, vì vậy con phải gieo duyên thì mới có duyên. Thí dụ con muốn làm bạn với một người nào đó thì con phải kết mối quan hệ qua nhiều điều kiện tương thích mới được.
Nhưng từ duyên có nghĩa rộng hơn trong sự tương giao của vạn pháp, gọi là trùng trúng duyên khởi. Duyên là những yếu tố cần và đủ để một nhân trở thành hiện thực. Thí dụ một hạt xoài chỉ nẩy mầm khi có đủ đất, nước, dưỡng chất, nhiệt độ, sự chuyển động, ánh sáng v.v… Những điều kiện cần và đủ đó chính là duyên, và nhân cũng chính là duyên tự nội của chính nó.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiChưa thọ giới Tỳ Kheo làm sao phạm giới Tỳ kheo được? Sadi chỉ phạm giới sadi thôi. Trong giới sadi có giới trục xuất và giới hành phạt. Nếu phạm giới trục xuất thì mới không thọ Tỳ kheo được, còn phạm giới hành phạt thì chỉ sám hối và xin hành phạt rồi vẫn thọ giới Tỳ kheo được. Nếu đã thọ giới Tỳ kheo mà phạm Tăng tàn thì sám hối biệt trú xong vẫn nhập chúng Tỳ kheo được.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Đức Phật nói mà dường như không nói, ngôn ngữ chỉ là một phần rất bé nhỏ và hầu như không phải là chính yếu khi đức Phật khai thị Sự Thật. Những nhân tố chính yếu có tác dụng mạnh mẽ khi Ngài chỉ dạy là tâm thái, cử chỉ, nụ cười, ánh mắt, vẻ tự nhiên, năng lượng, trí tuệ, từ bi v.v… biểu hiện nơi Ngài ảnh hưởng trực tiếp đến người cầu đạo đúng với căn cơ, tình huống, không gian, thời gian và thái độ nhận thức, niềm tin, sự chú tâm trọn vẹn trong sáng của người ấy ngay lúc đó, còn ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đôi khi hoàn toàn không cần thiết, vì sự im lặng của đức Phật có tác dụng khai tâm hơn nhiều so với những gì Ngài nói.
Nếu như ngôn ngữ là trọng yếu đến thế thì khi đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ Ngài chỉ cần bỏ ra một hai năm tìm một chỗ thanh vắng ngồi viết ra kinh điển rồi dùng thần thông biến ra vô số bộ kinh để phân phát cho chư thiên và nhân loại, đồng thời biến nó thành bất hoại để truyền lại cho muôn đời sau, rồi nhập Niết-bàn cho khoẻ, tội gì phải đi khai thị từng người và cần gì đệ tử phải ghi chép làm chi cho mệt. Cho dù làm thế Ngài vẫn không thể truyền đạt được toàn bộ chân lý Ngài đã giác ngộ qua ngôn từ mà chủ yếu là người được khai thị phải chứng ngộ chân lý ấy ngay nơi chính mình chứ chẳng có điều gì đến với anh ta qua ngôn từ cả.
Người thợ mộc đã rất đúng khi nói với ông vua đang nghiền ngẫm kinh điển rằng bệ hạ chỉ đang nhai lại cặn bã của Thánh nhân thôi. Chính vì thế mà sau khi đức Phật nhập diệt, lời dạy của Ngài đã được ghi lại một cách tóm lược qua trí nhớ, tất nhiên cũng có lợi nhưng đã tạo ra một hiệu ứng nguy hại khôn lường đó là sự phân phái do người sau hiểu nghĩa kinh ít nhiều sai khác, và càng về sau sự phát triển qua chú giải, luận thuyết, cùng các bộ kinh nguỵ tạo đã dần dần biến Đạo Phật thành Tôn giáo, Triết học và Tín ngưỡng. Như vậy không phải ngôn ngữ kinh điển chỉ còn là cặn bã của Thánh nhân đó sao? Chân lý luôn viên mãn nơi thực tại hiện tiền, vì không ai thấy nên Phật mới chỉ ra, ngay đó ai thấy được là xong, quên lời mới đúng.
Khi đạo sĩ Sāriputta hỏi ngài Assaji: “Thầy của ngài dạy gì?”, sao lúc đó ngài Assaji không bảo Sāriputta ngồi xuống nghe ngài đọc lại bài kinh Chuyển Pháp Luân mà chỉ nói một câu quá đơn giản: “Các pháp sinh ra từ một nhân”…? Vì ngài không cần lặp lại ngôn từ Phật nói, mà liền chỉ thẳng vào một sự thật, đó là tình trạng luôn sinh tâm tìm cầu sở tri sở đắc của Sāriputta, khiến Sāriputta bừng tỉnh. Sự bừng tỉnh kỳ diệu ấy đưa Sāriputta về với thực tánh chân đế (paramattha sacca) ngay nơi thực tại hiện tiền (sandiṭṭhiko dhammo).
Chân lý ở khắp nơi
Kiếm tìm chi ngôn ngữ
Khi tâm thật thảnh thơi
Chính là Dòng Bất Tử.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiĐó là những Ân đức con thường đọc trong 3 bài kinh nhật tụng:
– Ân đức Phật: Arahaṃ, Sammā sambuddho, Vijjācarana sampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisa-damma-sārathi, Satthā Deva-manussānaṃ, Buddho, Bhagavā.
– Ân đức Pháp: Dhammo, Sandiṭṭḥiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhi.
– Ân đức Tăng: Suppaṭipanno, Ujuppaṭipanno, Ñāyappaṭipanno, Sāmīcippaṭipanno, Āhuneyyo, Pāhuneyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjalikaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiChân tánh (paramattha sacca: thực tánh chân đế) chỉ chung cho bản tánh chân thực của tất cả pháp. Thể tánh (sabhāva) chỉ tánh chất như nó đang là. Tự tánh (tathatā, yathābhūtā) chỉ bản chất riêng của từng pháp. Pháp tánh (dhammatā) chỉ bản chất chung của vạn pháp. Phật tánh (Buddhatā) chỉ bản tánh hay khả năng giác ngộ nơi mỗi người.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiNgay cả Kinh Điển nguyên thuỷ nhất ghi lại lời Phật dạy cũng bị người sau thêm vào rất nhiều huống chi những Kinh trước tác cả hàng trăm, hàng ngàn năm sau. Do đó thầy không quan tâm đến những gì không phải là Pháp đức Phật dạy vì Ngài khẳng định pháp ấy là Sandiṭṭhiko (thiết thực thấy được), Akāliko (không qua thời gian), Ehipassiko (quay lại mà thấy), Opanayiko (ngay nơi thực tại), Pacattaṃ veditabbo viññūhi (mỗi người tự chứng). Còn những gì không phải pháp như vậy thì đừng vội tin.
Câu hỏi:
Các chủ đề liên quan:
Xem câu trả lờiCon vào trang web này nghe mục Pháp Thoại, đọc sách, văn v.v… trong Thư Viện và theo dõi mục Hỏi Đáp để nắm vững cốt lõi của Phật Pháp rồi sau đó nghiên cứu sâu rộng thêm mới không sợ bị lạc trong rừng Kinh Luận mà đa phần do người sau thêm thắt vào.