Kính bạch Thầy! Con từng nghe các vị Sư đọc câu kinh này: “Imam Buddharūpam adhiṭṭhāmi”. Mỗi lần con thắp hương trên bàn thờ Phật, con thường niệm câu kinh trên. Niệm như vậy có đúng không? Rất mong Thầy hoan hỷ chỉ bảo. Con thành tâm cám ơn Thầy!
Câu này được đọc khi quý sư chú nguyện tượng Phật, từ đó đọc kinh lễ Phật mới đúng. Khi quý sư nhận một tấm y mới cũng phải chú nguyện “Imam cīvaram adhiṭṭhām” rồi mới mặc được. Nếu tượng Phật đã được chư Tăng chú nguyện rồi thì con chỉ đọc kinh lễ bái Tam Bảo thôi, không cần đọc lại câu đó nữa, nhưng nếu con muốn đọc cũng không sao.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy.
Ăn ngũ vị tân có ảnh hưởng gì đến sự tu tập không? Con cảm ơn thầy.
Tuỳ theo đạo lực của mỗi người, đạo lực yếu thì bị ảnh hưởng, đạo lực mạnh thì không ảnh hưởng.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin thỉnh thầy giải đáp giúp con 2 câu hỏi ạ:
– Thế nào là ‘Độ’ trong câu ‘nguyện độ tất cả chúng sinh’? Con đang hiểu sơ qua là không để các tâm của mình hay của người khác ảnh hưởng đến mình, biết chứ không theo, nhưng cụ thể để hoá giải như thế nào thì con chưa rõ.
– Con mới gặp một tình huống như sau: Chỗ làm của con có các anh chị kĩ thuật nên nói chuyện rất suồng sã, con cảm thấy như vậy là không tôn trọng người khác. Nhiều lần con muốn góp ý nhưng con nhận thấy động cơ của con vẫn còn chưa tâm sân nên con vẫn chọn im lặng, con chỉ nhận biết tâm sân trong tâm con. Nhưng có lúc con lại sợ như vậy là mềm yếu nhu nhược, người ta sẽ càng được nước. Thầy cho con hỏi những cái ứng xử, góp ý lại ấy có cần thiết không, hay coi tác động bên ngoài đó là một pháp, không bị chạy theo là được thưa thầy?
– Độ có nghĩa đen là đưa qua sông hay biển, nghĩa trong nhà Phật là đưa tất cả chúng sinh qua khỏi bờ mê đến bến giác. Nhưng thật ra tất cả chúng sinh đây chính là tất cả tâm “sinh, hữu, tác, thành” tạo ra sông mê biển khổ, sinh tử luân hồi, nên mỗi người phải tự mình soi đường dẫn lối để đưa những chúng sinh si mê lầm lạc đó trở về với tâm “không sinh, không hữu, không tác, không thành”. Đó chính là ý nghĩa “tự tánh chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” trong nhà Phật, đừng hiểu lầm là cứu độ chúng sinh bên ngoài mà hoài công vô ích.
– Góp ý cũng tốt nhưng tuỳ vào việc góp ý và cách góp ý đó có hiệu quả hay không. Nếu con chưa tìm ra cách có hiệu quả thì chưa nên góp ý. Đợi khi nào đủ bình tĩnh sáng suốt và biết cách nói thế nào cho có hiệu quả mới nên nói. Con cũng nên tìm “đồng minh” trước vì biết đâu cũng có người cùng thấy như con nhưng không dám nói, để khi con nói ra có nhiều người đồng ý, như vậy ý kiến nhiều người sẽ tốt hơn. Hơn nữa cũng tuỳ địa vị của con, nếu con là cấp trên, là đồng cấp hay cấp dưới thì đều phải có cách nói khác nhau sao cho hợp tình thế mới có hiệu quả được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính bạch Sư Ông,
Ở đây, con muốn hỏi là chứng Sơ quả trong đời này có thể nỗ lực tu tập có thể chứng được quả vị cao hơn cũng trong đời này không? Con cũng xin được phép hỏi về mối liên hệ giữa Tứ Thánh quả và Tứ thiền ạ.
Con xin cảm niệm công đức.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tứ thiền không quan hệ gì đến tứ Thánh, vì tứ thiền còn trong tam giới trong khi tứ Thánh đã siêu xuất tam giới. Chứng sơ quả thì có thể chứng A-la-hán ngay trong đời này được, hoặc tối đa là 7 kiếp trở lại cõi người.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy con suy nghĩ nhiều về 2 chữ vô thần và tự hỏi có phải đạo Phật là vô thần?
Xin thầy chỉ dạy.
Đạo Phật công nhận có thần linh hoặc chư thiên, phạm thiên và họ có thể giúp hoặc hại những người có ân oán với họ, nên nói hữu thần cũng được. Nhưng Đạo Phật không dựa vào thần linh và không tin thần linh có quyền ban ơn giáng hoạ cho bất kỳ ai họ muốn vì Đạo Phật tin vào nhân quả nghiệp báo của mỗi người, do đó nói vô thần cũng được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con kính chào Thầy!
Con kính tri ân những khai thị của Thầy đã giúp con tháo gỡ được nhiều tà kiến và có chuyển biến tốt lên trong việc sống thuận pháp tùy duyên.
Con có một thắc mắc này khiến con bị vướng kẹt. Con xin Thầy từ bi khai thị. Như con được biết thì chỉ có Đức Phật toàn giác mới là bậc chánh biến tri và có đủ khả năng để thành lập Tam Bảo ở thế giới chưa có Tam Bảo. Để làm được điều đó thì vị bồ tát cần tu ba-la-mật rất lâu dài và nhiều gian khó. Thêm nữa như con nghe nói là bồ tát trong quá trình tu tập chưa thể thấy được thực tánh chân đế, chỉ tới khi thành Phật mới thấy được thực tánh. Liệu có phải vì những điều đó mà Phật giáo Nam truyền không chủ trương tu bồ tát đạo? Con thấy rằng nếu không có các vị bồ tát thì đâu có chư Phật vị lai. Cho con hỏi, làm thế nào để phát nguyện tu bồ tát đạo?
Con kính xin Thầy từ bi khai thị!
Con kính tri ân Thầy!
Bồ-tát theo ngôn ngữ Pāli của Phật giáo Nam truyền là Bodhi-satta, có nghĩa là chúng sanh biết tự giác. Vậy bất cứ ai đang tu tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác đều là Bồ-tát. Và đức Phật định nghĩa chánh biến tri là “thấy sự sinh, diệt, vị ngọt, sự nguy hại và xuất ly các pháp”. Nghĩa là thấy rõ các pháp nên không còn bị bất cứ pháp nào trói buộc, đó chính là bậc giác ngộ. Người đang hành như vậy gọi là Bồ-tát, người đã giác ngộ là Chánh Biến Tri.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
– Con xin phép hỏi Thầy: Phật A di đà và quan thế âm bồ tát có thật không ạ?
Con cảm ơn Thầy nhiều.
Nói có cũng được nói không cũng được tuỳ theo cách hiểu của mỗi người. Nhưng tốt nhất là phải tin vào Phật và Bồ-tát trong chính mình để phát huy tự tánh mới tốt, không nên dựa dẫm vào Phật và Bồ-tát bên ngoài.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ Sư Ông. Con có đọc một cuốn sách có nội dung như vầy
“Trong phép tu thiền định, từ: Tầm, sát, hỷ, lạc, tịnh, định, là từ con đường của nhân loại bước tới Niết Bàn.
Định là NIẾT BÀN. Tịnh là TỊNH ĐỘ. Lạc là CỰC LẠC hay cõi trời VÔ SẮC GIỚI. Hỷ là cõi trời SẮC GIỚI. Tầm sát là cõi trời DỤC GIỚI.
Đó là những nấc thang tấn hóa của nhân loại. Nghĩa là:
1.- BẬC SƠ THIỀN phải tu năm phép này: Lấy TẦM SÁT làm gốc vốn, để đến hỷ, lạc, tịnh, định. Có tầm sát là tầm tõi quán xét, dục muốn sự thiện, mới dứt qua khỏi ác nhơn tội lỗi, mà đến lần được, hỷ, lạc, tịnh, định, nên kêu gọi là Dục giới thiên, cái cảnh dục của lớp trên nhơn loại.
2.- BẬC NHỊ THIỀN còn tu bốn phép này: Lấy HỶ làm chỗ ở, để đến với lạc, tịnh, định. HỶ là sự mầng, mầng sống trong sự thiện lành tốt đẹp, đúng theo lẽ có có, nên kêu gọi là Sắc giới thiên, lớp trên cao hơn cảnh dục muốn. Trình độ của nguời đã qua khỏi sự tầm sát.
3.- BẬC TAM THIỀN còn tu ba phép này: Lấy LẠC làm chỗ ở, để đến với tịnh, định. Lạc là sự vui, vui sống trong cảnh không không tất cả, cũng không còn có thiện nữa, nên kêu gọi là Vô sắc giới thiên. Vô sắc giới thiên là tên gọi nơi người cư sĩ, chớ nếu xuất gia, thì kêu là Cực Lạc. Lớp trên cao hơn cảnh sắc có có. Trình độ của người đã qua khỏi sự hỷ.
4.- BẬC TỨ THIỀN còn tu hai phép này: Lấy TỊNH làm chỗ ở, để đến với định. Tịnh là sạch, là sống trong sạch, trong sự giải thoát xuất gia, nên gọi là Tịnh độ, Tịnh độ là lục độ thanh tịnh, lớp cao trên hơn cảnh Vô sắc và Cực Lạc. Trình độ của người đã qua khỏi sự lạc.
5.- BẬC NGŨ THIỀN hay ĐẠI ĐỊNH là còn một phép này: Lấy ĐỊNH làm chỗ ở, không còn đi đâu nữa cả. ĐỊNH là yên lặng, sự sống yên lặng hoàn toàn nên gọi là Niết Bàn, Niết Bàn là đứng ngừng hưu trí, ngưng việc rốt ráo, không còn chỗ đến, đến đây là kết quả mục đích. Lớp trên cao hơn Tịnh độ, cao trên hơn hết. Trình độ của người đã qua khỏi sự tịnh sạch.
ĐÓ LÀ PHÉP TU TRÊN NHƠN LOẠI:
Sơ định là: Tầm sát, hỷ, lạc, tịnh, định.
Nhị định là: Hỷ, lạc, tịnh, định
Tam định là: Lạc, Tịnh, Định
Tứ định là: Tịnh, định
Ngũ định là: Định
1.- SƠ ĐỊNH, là cảnh trời Dục giới thiên, cảnh của người cư sĩ giữ 5 giới chay kỳ, ở tại nhà.
2.- NHỊ ĐỊNH, là cảnh trời Sắc giới thiên, cảnh của người cư sĩ giữ 8 giới, trường chay, ở am chùa.
3.- TAM ĐỊNH, là cảnh trời Vô sắc giới thiên, cảnh của người cư sĩ, giữ 10 giới, ngọ chay, không tiền, ở cốc, hang, động, hoặc là xứ Cực Lạc của người tu tập xuất gia khất sĩ ở trong Giáo hội.
4.- TỨ ĐỊNH, là cảnh Tịnh độ Tây phương của bậc tu xuất gia khất sĩ thanh tịnh, giữ 250 giới giải thoát.
5.- NGŨ ĐỊNH, là cảnh Niết bàn, của những bậc đắc thiền định hay đại định.
Đó nghĩa là từ cảnh trời Dục giới, đến Sắc giới, đến Vô sắc hay Cực Lạc sẽ đến Tịnh độ, và đến Niết Bàn, tức là danh từ tên gọi của pháp thiền định, chỗ ở của tâm, chớ không phải ở đâu hết. Như thế tức là sự chỉ rõ ra rồi, từ đây chắc không còn ai hiểu lầm nữa.
Thế thì chỉ có sự thật lo tu là đúng hơn hết.”
Con muốn hỏi Sư Ông trạng thái ngũ định có phải là niết bàn không ạ. Vì con biết Đức Phật đã bỏ thiền định chuyển sang tu thiền tụê mới đắc đạo. Mong Sư Ông giãi nghi cho con. Con xin tri ân!
Con đừng vội tin người khác nói, nếu con bắt chước theo thì muôn đời khó mà giác ngộ. Tự con phải trải nghiệm chiêm nghiệm để chứng ngộ Sự Thật, khi con đã chứng ngộ Sự Thật thì mọi cách nói bên ngoài đều vô nghĩa và nhảm nhí.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy. Cách đây mấy hôm con có nghe thầy giảng bài kinh con rắn. Bài kinh nói dùng thanh gươm đào tới lúc thấy con rắn thì đảnh lễ con rắn đó. Con thấy con rắn là nói đến tánh biết của tâm có thể “ứng ra” khi hữu sự, và “thu vào” khi vô sự, phải không ạ? Kính xin lời khai thị của Thầy. Con xin cảm ơn.
Đúng. Trong kinh Gò Mối, con rắn tượng trưng cho tâm của vị đã không còn lậu hoặc, đó chính là Tâm Chói Sáng (Pabhassara Citta) mà đức Phật nói đến trong bộ kinh Tăng Chi.
Thân tứ đại (gò mối), Suy tư (ban đêm phun khói), hành động (ban ngày chiếu sáng). Bậc giác ngộ (Bà-la-môn). Bậc hữu học (người có trí), Trí tuệ vô lậu (thanh gươm), tinh tấn (đào bới). Sau khi tinh tấn dùng trí tuệ loại bỏ vô minh (then cửa), phẫn nộ (con nhái), nghi hoặc (con đường hai ngả), 5 triền cái (đồ lộc sữa), 5 thủ uẩn (con rùa), 5 dục (dao phay), hỷ tham (miếng thịt) cuối cùng thấy ra Tâm Chói Sáng (con rắn) không còn lậu hoặc.