Con kính thưa Sư Ông ạ! Con thưa Sư Ông làm sao để con được Tự do trong cuộc sống. Con thấy đâu đâu cũng ràng buộc, cũng kiểm soát khiến con đau khổ và hoang mang vô cùng. Con nên làm sao đây? Con kính xin Sư Ông khai thị cho con ạ!
Tự do là thái độ nội tâm nên những ràng buộc bên ngoài không thể ngăn ngại được một tâm hồn tự do, giải thoát. Hãy tìm tự do bên trong đừng mong có tự do bên ngoài.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin đảnh lễ thầy!
Kính bạch thầy! Một vị Nhập lưu là cư sĩ có bị hạn chế về điều kiện giải thoát so với vị Nhập lưu là tu sĩ không thưa thầy? Tức là có bất cứ điều gì hạn chế cho việc giải thoát nếu không xuất gia không thưa thầy. Con xin thầy từ bi giảng giải cho con được biết!
Con thành tâm đảnh lễ thầy!
Còn tuỳ mỗi trường hợp mỗi người chứ không có nguyên tắc nhất định nào cả.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy! Con đã thấy ra sự dính mắc và giải thoát cả sự dính mắc. Đó là điều hiển nhiên, là như thế. Cũng như hoa nở thì mùi hương tự bay đi theo gió và ong bướm sẽ đến là một sự thật hiển nhiên.
Con xin đảnh lễ tạ ơn Thầy.
Con cảm ơn Thầy đã trả lời con.
Hôm nay con có thấy lời thầy trả lời trong các mục hỏi đáp là: “Pháp còn bỏ, huống là phi pháp”. Con có thể hiểu vế đầu là: Buông bỏ pháp có nghĩa là không nương theo phương pháp nào nữa, sống với tâm không còn bản ngã và đối với tục đế thì tùy duyên thuận pháp. (Chứ không phải cái gì cũng “đòi bỏ” hoặc có người còn lý luận: được Niết Bàn không lẽ bỏ “tu”, làm được mọi việc, xấu tốt gì cũng làm? Hoặc là tu lâu rồi sẽ trở thành “thiện xảo”, không cần chú tâm vẫn làm được.)
Giống như Phật nói cả đời Ngài đã dừng tạo tác nghiệp, có phải như vậy không Thầy?
Con cảm ơn Thầy luôn từ ái và nhẫn nại với những thắc mắc của chúng con.
Hôm nay chúng con có làm được thiện pháp nhỏ, xin hồi hướng đến Thầy và mọi người được an vui.
Pháp ở đây ám chỉ những pháp môn tu. Pháp môn là phương tiện, như thuyền đưa người qua sông, qua sông rồi phải bỏ thuyền để lên bờ. Cứ ở trong thuyền hoài không lên bờ thì cũng giống như người tu “chấp pháp” (pháp môn phương tiện) không thể giác ngộ giải thoát được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch thầy cho con hỏi. Con có cần cầu giác ngộ giải thoát không. vì sao ạ. Con xin tri ân công đức của thầy rất nhiều.
Giác ngộ là thấy ra Sự Thật. Nhờ vậy không còn bị ảo tưởng trói buộc trong phiền não khổ đau nữa gọi là giải thoát. Chỉ những người đang say mê trong vị ngọt của ảo tưởng đầy hấp dẫn chưa thấy những khổ luỵ đang ẩn núp đàng sau mới không muốn giác ngộ giải thoát thôi. Tuy nhiên khi thấy ra thì họ cũng giác ngộ giải thoát.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa sư ông con thấy ra giải thoát sinh tử ngay tại đây và bây giờ chứ không phải đợi sau khi chết ạ.
Kinh thua Thay!
Giac ngo giai thoat van co the dat duoc giau co, manh khoe nhu thuong nhung khong chap vao nhung gi dat duoc, co dung khong Thay?
Con xin cam on Thay!
Kính thưa Thầy, con muốn hỏi là người tu tập với ý mong cầu quả giải thoát có phải là tâm tham không ạ? Ý muốn đó có phải là bản ngã không? Con xin cảm ơn Thầy! Con chúc Thầy thật nhiều sức khỏe ạ.
Nếu ý muốn giải thoát là một lý tưởng tương lai thì đó là tham vọng của bản ngã. Nếu muốn vì biết cách giải thoát ngay hiện tại là điều tất yếu.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Chào thầy. Đây là đoạn thuyết giảng của KRISHNAMURTI
“… Tự do, giải thoát, là một phẩm chất của tâm hồn. Cái phẩm chất này không đến từ sự thận trọng tìm tòi, nghiên cứu, phân tích, sắp xếp tư tưởng lại với nhau. Tư tưởng và tự do, giải thoát, là hai điều đối nghịch. Tư tưởng không đem tới tự do, giải thoát, vì tư tưởng đã bị điều kiện hóa. Cái phẩm chất của tâm hồn này là sự tỉnh giác, chỉ trực nhận thuần túy, không phân tách, không so sánh từ kinh nghiệm của quá khứ, v.v…”
Con chưa hiểu chỗ này ạ:
“Tư tưởng và tự do, giải thoát, là hai điều đối nghịch. Tư tưởng không đem tới tự do, giải thoát, vì tư tưởng đã bị điều kiện hóa.”
Con thắc mắc là:
K vẫn dùng tư tưởng đó thôi, chẳng lẽ K chưa tự do, giải thoát – à thầy?
Nhờ thầy giải đáp cho con hiểu ạ. CON CÁM ƠN THẦY NHIỀU
Tư tưởng hình thành từ khái niệm đã cũ – vì khái niệm là cái đã bị quy định, làm sao tự do giải thoát được. Chỉ có thể trực nhận sự thật (tuệ tri) ngay khoảnh khắc đang là, trong khi phải trải qua tiến trình ngũ uẩn của lý trí (tưởng tri, thức tri) mới hình thành tư tưởng.
K nói lên sự thật chứ không phải xuất phát từ tư tưởng nào. Thí dụ con thấy vô thường, khổ, vô ngã và nói lên sự thật đó thì không qua tư tưởng. Nhưng khi con hình thành khái niệm vô thường, khổ vô ngã từ kiến thức kinh luận rồi áp đặt tư tưởng đó lên mọi hiện tượng thì đã bị trói buộc làm sao tự do giải thoát được.