Thưa thầy thầy cho con hỏi, kinh Duy Ma Cật có được ghi trong kinh điển Nguyên Thủy không ạ?
Kinh viết về một vị ở tại gia mà lại có trí tuệ như vậy liệu có đúng không ạ?
Kinh viết ra là để nhấn mạnh điều gì cho mọi người ạ?
Con xin đảnh lễ thầy.
Kinh này không có trong Chánh Tạng Nguyên Thủy (kết tập 3 tháng sau khi đức Phật nhập diệt), mà được trước tác sớm nhất cũng hơn 600 năm sau Phật lịch, mang tính triết học của thời kỳ Tượng Pháp (các nhân vật chỉ có tính biểu tượng chứ không phải là nhân vật thật). Chủ yếu kinh này có ý phá chấp đối với các pháp chế định tục đế để đề cao pháp thực tánh chân đế.
Tuy nhiên vì kinh dùng biểu tượng cho sự chấp trước là các bậc Thánh đại đệ tử của đức Phật, còn sự phá chấp lại là một cư sĩ bệnh hoạn nên đã phá chấp một cách quá đáng, thậm chí bôi bác, nên hóa ra vô tình lại rơi vào một loại chấp khác còn nguy hiểm hơn. Thực ra chân đế thì vô ngôn, kinh này lại dùng biểu tượng và ngôn luận để hiển bày chân đế thì đã tự mâu thuẫn rồi! Đúng là:
“Rằng hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Mô Phật kính thưa sư! Con biết sư công việc rất nhiều nhưng vì những gút mắc của chúng con không biết hỏi ai, hơn nữa từ khi con biết được website trungtamhotong đã giúp con tháo gỡ rất nhiều những vướng mắc trong giáo pháp và cũng như hành pháp. Con thấy sư tận tình chia sẻ cho rất nhiều Phật tử, hơn nữa sư trả lời rất linh hoạt và trung thực giúp cho chúng con đi đúng đường, chúng con vô cùng cảm ơn sư và cố gắng tu hập để không phụ công sư dạy dỗ. Chúng con rất có phước báu mới gặp được sư, nếu không chúng con cứ mãi loanh quanh trong niềm tin tín ngưỡng.
Thưa sư, trước đây chúng con có thờ Phật bổn sư Thích-ca Mâu-ni, nhưng gần đây có một số quý thầy nói chúng con là Phật tử tại gia không được thờ ngài, chỉ có chùa mới thờ, nếu con thờ thì có những chuyện không tốt xảy ra. Con có hỏi tại sao thì quý thầy không nói rõ và khuyên con nên thờ bộ tam thánh là Di-đà, Quan Âm, Thế Chí và thầy giải thích Quan Âm thì luôn cứu khổ cứu nạn khi gặp nguy tai, còn Di-đà thì thờ ngài để khi lâm chung được Phật tiếp rước về Tây phương. Con thấy thầy giải thích cũng có lý vì con thấy đa số Phật tử Việt nam ít ai thờ Phật bổn sư, đa số là thờ bồ tát Quan Âm còn Di-đà sau này mới thờ theo bộ tam thánh.
Con có một chút suy nghĩ, tôn giáo bạn nhà nào cũng phải thờ đấng giáo chủ của họ và thường xuyên niệm dến danh hiệu để tưởng nhớ tri ân. Trong khi đó đạo Phật thì khác hẳn, hình như ít ai biết đến đức Phật lịch sử và giáo lý của ngài, chỉ thờ tự và tưởng niệm những Phật và bồ tát ở huyền thoại, vậy thì sự truyền thừa làm sao có sự chính xác. Nếu mà thờ đức Bổn sư thì có ảnh hưởng gì đến cuộc sống gia đình không thưa sư mà con nghe một số quý thầy nói làm con hoang mang vì đa số chúng con chỉ biết đi chùa đại thừa không được gần gũi các sư Nam tông để học hỏi thêm giáo lý nguyên thuỷ, nhờ có website này mà chúng con mới có cơ hội tiếp cận với những lời gốc Phật dạy.
Cúi xin sư hoan hỷ cho chúng con vì chúng con còn lơ mơ trong pháp học nên không biết thế nào là đúng sai. Mỗi thầy nói mỗi kiểu, mỗi chùa nói một hướng khác nhau, chúng con thật sự bối rối, chúng con rất tha thiết gởi đời sống tâm linh vào sư mong được sư chỉ dạy ạ. Cầu nguyện cho sư có nhiều sức khoẻ để giúp chúng con và cho những ai có duyên để đi đúng con đường mà Phật đã tận tâm chỉ dạy.
Từ Đạo Phật nguyên thuỷ đến Phật Giáo phát triển rồi dần dần đi xuống Tín Ngưỡng thờ Phật như Thần linh ban ơn cứu khổ. Ba giai đoạn này ứng với ba thời kỳ mà đức Phật tiên đoán về sự thoái hoá của Giáo Pháp là: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.
Chánh pháp là thời kỳ khai thị chân lý trực tiếp nguyên vẹn của đức Phật, tương ứng với Đạo Phật Nguyên Thuỷ. Tượng pháp là pháp triển khai vận dụng của các Tông phái, đã biểu tượng hoá các đức tính bên trong mỗi người thành những vị Phật và Bồ-tát bên ngoài, tương ứng với Phật Giáo Phát Triển, mang tính triết học tôn giáo. Mạt pháp là thời kỳ biến các biểu tượng thành nhân vật thật để thờ cúng, khấn vái cầu xin để được ban ơn cứu khổ như các Thần Linh đến từ các cảnh giới xa xăm đầy quyền lực, tương ứng với Tín Ngưỡng thờ Phật như “Thần Giáo” của đạo Bà-la-môn trước thời đức Phật! Chính vì mất gốc theo ngọn như vậy nên gọi là mạt pháp.
Thực ra, người Phật tử chân chính không cần thờ ai cả, chỉ sống đúng Bát Chánh Đạo chính là thờ Phật rồi. Nếu có thờ thì chỉ để tỏ lòng tri ân và tôn kính đối với vị Bổn Sư đã khai thị cho mình chứ không phải để khấn vái cầu xin ban ơn giáng phước. Từ một Đạo Phật với chân lý nhân quả nghiệp báo rất công bằng phân mình để mỗi người tự học ra bài học giác ngộ thành Phật, nay đã biến thành một tôn giáo tín ngưỡng mang tính cầu xin tha lực cứu độ, và do người ta không tin vào sự giác ngộ do tánh giác nơi chính mình nữa nên không dám thờ đức Phật lịch sử vì Ngài dạy phải trở về với chính mình mà giác ngộ. Tất nhiên ai căn cơ đức tin muốn cầu xin van vái thì cứ để họ thờ các biểu tượng Thần Phật, còn ai căn cơ trí tuệ thấy rõ pháp vận hành mà giác ngộ ra Sự Thật thì Phật đã ở trong tâm đâu cần thờ nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Mô phật thưa Sư cho con hỏi. Trong kinh sách nói rằng bồ tát Hộ Minh trải qua ba a tăng kỳ kiếp tu lục độ ba la mật đến kiếp hiện tại ngài làm thái tử và xuất gia thành đạo Ngài đã tuyên bố đây là kiếp sống cuối cùng của ngài để chứng nhập niết bàn không còn trở lại nữa. Cũng như các vị thánh đệ tử các vị ấy biết luân hồi đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã hoàn tất, điều cần làm đã làm không còn bị sinh tử nữa. Có nghĩa là không còn sanh, hữu, tác, thành. Không còn tàng dư, như củi hết lửa tắt.
Nhưng hôm qua 17/11. Lễ vía Phật di đà con lại nghe quý thầy giảng và cũng như báo giác ngộ viết đức Phật A-di-đà là hoá thân của một vị thầy Vĩnh Minh là người đứng đầu tông tịnh độ của đời thứ sáu. Nếu như vậy các vị Phật đã chứng quả A La Hán và nhập niết bàn rồi vẫn có thể phát nguyện xuống lại cõi đời này để độ sinh có nghĩa là sanh hữu tác thành theo chiều thuận của 12 nhân duyên. Con đang theo Phật giáo phát triển nhưng con vẫn còn luẩn quẩn giữa pháp tu và pháp học nên con mạn phép hỏi sư để cho con sáng tỏ thêm không có ý xuyên tạc. Vì đây là con đường mà con và đa số mọi người đang tu tập theo. Nên con rất lo sợ nếu không khéo chúng con có thể đi trong vòng luẩn quẩn của vô minh và ái dục. Con thành kính tri ân sư.
Quan niệm của các Tông Phái có lẽ không nên để mất thời gian bàn đến. Phật, Thánh còn hay không là chuyện của các Ngài, chỉ những kẻ ngu ngơ tỏ ra tài khôn mới bàn cãi, tranh luận, như những người mù sờ voi. Bàn cãi chuyện không thể nghĩ bàn đức Phật nói chỉ để dành cho người điên loạn. Chuyện của chúng ta ngay đây và bây giờ là có biết mình như mình đang là hay không mà thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy.
Con là Phật tử đã hỏi câu hỏi về kinh Lăng Nghiêm ngày 14/10. Con xin cảm tạ lời giải đáp rất tỏ tường của thầy. Nhân đây con mạo muội có một thỉnh cầu nơi thầy.
Con cảm nhận tuy thầy khoác chiếc áo của hệ phái Nguyên Thủy nhưng trí tuệ và khí chất vô cùng phóng khoáng, hòa nhập với chân lý giác ngộ và những khuôn khổ hạn hẹp của hệ phái tông môn không ngăn ngại được một tâm hồn đã hòa với lẽ thật. Con xin thành kính lễ bái thầy, lễ bái tinh thần “y pháp bất y nhân” nơi thầy.
Con thấy có không ít phật tử Bắc Tông tìm đến với trang web để đặt câu hỏi, đa số cũng còn hoang mang nơi một số kinh sách Đại Thừa. (qua sự tìm hiểu hạn hẹp của con, kinh sách đại thừa đa phần nói về thần thông, sự biến hóa khôn lường của diệu tâm làm khởi lên các cảnh giới vi diệu khác nhau, trong đó có kinh A-Di-Đà và pháp môn Tịnh Độ). Con không biết thầy đã từng nghiên cứu qua các kinh Đại Thừa chưa nhưng nay con tha thiết thỉnh cầu thầy vì rộng độ quần sanh, có thể nào thầy dùng chút thời gian nghiên cứu thêm các Kinh Đại Thừa (như Lăng Nghiêm và 48 lời nguyện của đức phật A Di Đà). Bằng sự tinh thông về Vi Diệu Pháp và Duy Thức Học của thầy, con nghĩ thầy sẽ dễ dàng đi sâu, lý giải được ý nghĩa thiện xảo trong kinh Đại Thừa. Qua đó có thể giúp các Phật tử Bắc Tông có sự hiểu biết rõ ràng hơn chứ không chỉ dừng ở mức tín tâm.
Con lòng thành nhưng tri kiến còn ngu muội, hạn hẹp, nếu thỉnh cầu và lời lẽ của con có điều chi quá đáng, con xin thành tâm sám hối cùng thầy. Con xin chúc thầy sức khỏe và an vui. Con cung kính lễ bái thầy.
Thầy đã cũng đọc được không ít kinh luận Đại Thừa và nhờ tinh hoa của Phật Giáo Nguyên Thủy mà thầy tìm được yếu lý của Phật Giáo Đại Thừa. Thực ra trong cốt lõi thì hai bên giống nhau, chỉ khác ở chỗ đức Phật chỉ thẳng sự thật, còn chư Tổ Đại Thừa phần lớn dùng biểu tượng hoặc lý luận để ví von hay mô tả sự thật ấy. Đại Thừa còn gọi là Phật Giáo Phát Triển vì nhắm vào đại đa số quần chúng, mà quần chúng thì thường có hai hạng khác nhau: Một là hạng trí thức thì nặng triết lý nên các Luận Sư đã phát triển mặt triết học lên cao độ qua các bộ Luận của mình như Trung Quán Luận, Duy Thức Luận v.v… Hai là hạng bình dân thì nặng đức tin nên các Tổ Đại Thừa đã phát triển một số Kinh Giáo để đáp ứng mặt tín ngưỡng quần chúng như Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm v.v… mà trong đó đạo lý phần lớn được ẩn trong các biểu tượng. Chính vì vậy thời kỳ Đại Thừa được gọi là Tượng Pháp. Nếu giải mã được các biểu tượng và ẩn dụ thì đạo lý hoàn toàn giống Phật Giáo Nguyên Thủy, nhưng nếu không giải mã được thì một mặt rơi vào triết lý suông, mặt khác rất dễ trở thành mê tín. Trong khi Đại Thừa trên đà đi xuống như thế thì Phật Giáo Nguyên Thủy cũng dần rơi vào “y kinh diễn nghĩa” nặng tính kinh điển ngôn giáo để diễn dịch hơn là thấy ra sự thật mà đức Phật chỉ thẳng trước đây. Chính vì thế mà Phật giáo đang rơi vào thời kỳ mạt pháp!
Lý do thầy không còn giảng giải kinh điển nữa, dù Kinh Nguyên Thủy hay Đại Thừa, vì như vậy chỉ mất thì giờ vô ích để dùng ngôn ngữ diễn giải ngôn ngữ. Trước đây thầy cũng có dạy môn Vi Diệu Pháp so sánh với Duy Thức, và thậm chí có giảng Kinh Pháp Hoa giải mã theo tinh thần Phật giáo Nguyên Thủy ở Phật Học Viện Phật Bảo, ở chùa Kỳ Viên và Chùa Huyền Không, nhưng đó vẫn chỉ là lý suông không thực sự đem lại lợi lạc thiết thực. Nên từ năm 2009 đến nay thầy chỉ chia sẽ những gì thầy thấy biết thật sự ngay nơi thực tại đang là, vì đó mới chính là những gì đức Phật và chư Tổ muốn chỉ bày.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Sư.
Sư cho phép con được hỏi. Một số thầy nói rằng Phật giáo đại thừa hay hơn Phật giáo nguyên thuỷ, Phật giáo đại thừa tu độ cho bản thân và độ cho chúng sanh, Phật giáo nguyên thuỷ tu chỉ độ cho bản thân mình. Con rất mong được nghe ý kiến phân tích của Sư về vấn đề này. Con cúi đầu cảm tạ Sư.
Xem câu trả lời
Chân lý chỉ có một, và nó là vô ngã, vì vậy còn chấp tông phái, còn thấy hơn thua chứng tỏ chưa thấy chân lý và còn chấp ngã. Người đã giác ngộ chân lý, không còn chấp ngã thì không bao giờ nói chân lý của tôi hơn chân lý của anh. Đó không phải là Đại thừa nói, mà chỉ những người chấp Đại thừa nói. Còn Đại thừa thật sự thì như Thường Bất Khinh Bồ-tát luôn đảnh lễ mọi người vì ai cũng sẽ giác ngộ chân lý mà thành Phật như nhau. Đơn giản vậy mà con không hiểu sao?
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy! Con đã có duyên đọc được những trang trả lời thắc mắc của các vị đồng tu khắp năm châu gởi về nhờ thầy chỉ dạy. Đây là những bài học ngàn vàng mua không nổi. Nhờ đâu mà thầy có thể thấu triệt Phật pháp một cách rốt ráo như vậy? Trong những bộ Kinh đại thừa, ví dụ như Kim Cang kinh, nếu con đọc hiểu và ứng dụng vào hoàn cảnh sống hiện tại thì như vậy có phải là con đang tu không? Xin thầy từ bi chỉ dạy thêm cho con hiểu một cách cụ thể là làm sao để buông cái bản ngã đang lăng xăng tạo tác? Đạt vô ngã tức đạt Niết-bàn phải không thưa thầy? Nói như thế có phải là con đang tham không? Con mong tin thầy.
Bản chất của cái ngã lăng xăng là luôn tìm cách bám trụ. Cái gì nó ưa thích thì liền tham đắm, cái gì nó ghét bỏ thì cố loại trừ. Về tri thức cũng vậy nó bám vào tư kiến của mình rồi hình thành kết luận và mắc kẹt trong đó mà thành tà kiến. Do đó, trong thiền Tứ Niệm Xứ đức Phật cảnh báo: “Sống không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời” và gần 700 năm sau Kinh Kim Cang cũng dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Khoảng 400 năm sau nữa Ngài Huệ Năng khi nghe Ngài Hoàng Nhẫn đọc câu này liền ngộ.
Buông cái ta lăng xăng tạo tác cũng đồng nghĩa với “Không nương tựa, không chấp trước điều gì ở đời”. Nếu thấy cái ta chỉ là ảo tưởng liền không bám trụ vào nó thì gọi là buông, lúc đó không còn cái ta ảo tưởng che lấp nên thực tánh liền hiển lộ trong tánh thấy, nên Kinh Viên Giác gọi là “Tri huyễn tức ly, ly huyễn tức giác”. Đó chính là ý nghĩa đích thực của Thập Độ Ba-la-mật (Pàramì). Sống được như vậy thì chữ tu không còn là nỗ lực của bản ngã nữa, nên Phật gọi đó là “sống thuận Pháp” (Dhammànudhamma patipanno viharati).
Để sống được vô ngã thuận pháp chỉ cần tại đây và bây giờ thường tinh tấn chánh niệm tỉnh giác hay thận trọng chú tâm quan sát ngay nơi mỗi động tịnh của thực tại thân tâm thì bản ngã vô minh ái dục không còn cơ hội xen vào bám níu và lăng xăng tạo tác ra Tập đế. Không Tập đế thì Khổ đế cũng không còn. Không còn Tập đế và Khổ đế thì ngay đó chính là Đạo đế và Diệt đế (Niết-bàn). Chúng ta nên nói Niết-bàn là vô ngã hoặc nói chấm dứt hoàn toàn bản ngã tham sân si là Niết-bàn thì đúng hơn.