Bạch Sư Ông. «không có cái ngã ác pháp thì có cái ngã thiện pháp» đó là chuyện đương nhiên phải không thưa Sư Ông? Điều quan trọng là mình giữ tâm rỗng lặng không chấp cái ngã nào cả dù đó là ngã thiện pháp phải không ạ? Tại con thấy nhiều vị họ nói “Tôi có cái ngã nhưng là ngã thiện, thì đâu có sao”. Nói Vô ngã mà họ chấp như vậy nên con hơi khó hiểu. Con cảm ơn Sư Ông.
Con thấy đúng. Khi chưa giác ngộ vô ngã thì ngã thiện cũng tốt, nhưng chấp vào ngã thiện thì vẫn còn chấp ngã..
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy,
Con mới chỉ biết đến thiền vipassanā và Phật Giáo Nguyên Thủy được khoảng một năm. Trước khi biết đến thiền, hành động và lời nói của con thường nhanh nhẩu, tự phát theo cái bản ngã. Sau khi tu tập, con có thấy được những cái tâm tham sân si nổi lên mỗi khi gặp phải một hoàn cảnh bất như ý. Khi thấy những tâm tham sân si đó, con thường tự nhắc nhở bản thân rằng đây không phải là cách hành động đúng, chỉ nhắc nhở như vậy chứ không phán xét hay ghét bỏ những trạng thái tâm đó, và rồi những tâm tham sân si đó mất đi.
Con muốn hỏi rằng liệu sự nhắc nhở đó là cái tâm của con đang lên tiếng, hay cũng chỉ là một cái bản ngã vô minh đang tự đặt cho mình một quy tắc sống hợp đạo lý? Liệu sự nhắc nhở đó có nằm trong quá trình quan sát trọn vẹn mọi thứ hay chăng?
Con cám ơn sự chỉ dạy của Thầy. Con xin thành kinh đảnh lễ Thầy!
Nhắc nhở cũng không sao. Nếu bản ngã tốt nhắc nhở bản ngã xấu hướng thiện thì đó cũng tốt. Quan trọng là thấy ra mọi hoạt động của thân tâm thì sẽ phát hiện đâu là bản ngã, đâu không bản ngã.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
Lời đầu tiên con xin kính chúc Thầy sức khoẻ. Con có đủ duyên lành tham dự buổi khai giảng khoá thiền 17 và con đã tìm được câu trả lời cho những gì con đang băn khoăn bế tắc khi nghe Thầy giảng. Tuy nhiên con có 1 chỗ vẫn chưa rõ lắm mà giờ con mới chợt nghĩ ra. Theo những gì con nhớ Thầy đã giảng thường mọi người Tu theo 2 hướng: 1 là nỗ lực để đạt được cái gì đó ở tương lai, 2 là tin vào Tha lực. Nhưng trường hợp thứ 2 chủ yếu do tưởng sanh, và tưởng của con người rất mạnh. Nhưng thực ra vẫn có những hiện tượng khó giải thích. Nếu vậy 1 người tin có tha lực chả lẽ họ đều ảo tưởng ạ?
Nếu có gì con hiểu sai hoặc nhớ sai mong Thầy chỉ dạy ạ.
Con xin cảm ơn Thầy.
Khi thấy có ngã, có nhân, thì mới thấy có tự có tha, có năng có sở. Khi thấy vô ngã, vô nhân, vô năng, vô sở thì tất cả đều là sự vận hành của Pháp, không có tự có tha nữa. Tất cả đều là sự mầu nhiệm của Pháp chứ không có tự lực, tha lực nào cả. Điều này con không thể hiểu mà chỉ có thể chứng ngộ thôi.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy!
Người cố tu luyện đạo đức “hữu vi, hữu ngã” có phải chỉ cố thể hiện ra cái bản ngã của mình đang tu để cho người khác thấy hoặc vì mục đích được đạt thành lý tưởng?
Còn khi hành động từ bi, hỷ xả, vô vi, vô ngã là thấy rõ việc nên làm thì làm và làm phúc không mong được báo đáp, không cần lưu danh? Vì người đó không có khái niệm “ta” “của ta” nên không cần người khác mang ơn. Con hiểu như vậy có đúng không ạ?
Con kính đảnh lễ Thầy.
Thưa thầy, con nhận thấy xưa nay trong con không phải pháp tu mà là bản ngã tu, xưa nay không phải tánh biết thấy mà là lý trí thấy. Những miêu tả mà mọi người chia sẻ là đang thấy pháp hay thấy an con cũng từng trải qua, cũng thấy nó thật đẹp đẽ và vi diệu, nhưng sâu thẳm trong con lại thấy rằng vẫn chưa phải thực tánh pháp, mà chỉ là cảm thọ lạc, rất lạc mà thôi, có phải con đã quá đa nghi không thầy?
Con thấy cũng đúng, nhưng đừng sợ bản ngã quá. Nó cũng là công dụng giúp con thấy ra sự thật thôi, khi con đã hoàn toàn thấy ra nó, thấy ra sự thật thì nhiệm vụ của nó cũng đã xong nên không có gì đáng ngại nữa.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy cho con xin trình sự thấy của con trong đêm hôm qua. Đêm hôm qua con thấy ra 1 nguyên lý đó là diệt bản ngã để thấy vô ngã. Nói diệt bản ngã thì không đơn giản chút nào cả. Vì muốn diệt bản ngã trước tiên phải thấy được bản ngã, đâu là bản ngã đâu là vô ngã. Sau đó cần phải có xúc chạm với việc đời, tiếp xúc với mọi phiền não, tiếp xúc với khổ đau để thấy ra bản ngã. Khi tiếp xúc như vậy mới thấy tâm động như thế nào. Khi tâm động đó chính là sự hình thành của bản ngã, nhưng nhờ tiếp xúc như vậy 1,2 lần và nhiều lần thì từ từ tâm sẽ bớt động, vì mỗi lần động thì chắc chắn sinh ra khổ đau, khi sinh khổ đau từ từ mới buông bỏ được bản ngã. Vì thế chính nhờ phiền não, khổ đau mới đánh tan được bản ngã.
Ví dụ: ba con bị liệt không đi đứng được mỗi lần ba đi tiểu tiện con phải đi đổ phân cho ba, mùi thật là hôi thúi. Lúc đầu con làm như vậy với tâm rất sân với mùi hôi thúi ấy mà không nói ra được thành lời, nhưng nhờ nhiều lần như vậy mà tâm con trở nên bớt sân. Chính nhờ tiếp xúc nhiều lần như thế mà vô tình đã làm giảm đi bản ngã của mình.
Vì thế mà con học ra bài học muốn thấy vô ngã thì cần phải đương đầu với cuộc đời, với phiền não với khổ đau. Đến 1 lúc tâm không động không sầu thì mới thật sự thấy vô ngã.
Con xin trình pháp với Thầy thông qua sự thấy của con tối qua. Con xin cảm ơn Thầy.
Con thấy đúng. Cái ngã thường mong thoát khổ tìm lạc. Thực ra thoát ngã thì phải thoát được cả khổ lẫn lạc khiến sân và tham sinh khởi. Nhưng thoát không phải là thoát ra khỏi mà thoát bằng trí tuệ thấy rõ bản ngã chỉ là ảo tưởng tự trói buộc trong khổ và lạc mà không thấy ra sự sinh, diệt, vị ngọt và sự nguy hại của khổ và lạc ấy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính bạch Thầy,
Đầu tiên con kính chúc Thầy được nhiều sức khoẻ, những Phật sự Thầy đang làm và sẽ làm được thành tựu viên mãn.
Con có 2 câu hỏi, mong Thầy soi sáng cho con.
Hôm nay con có dự khoá thiền và được giảng dạy 4 tầng thiền của Đức Phật, phương pháp thể nhập vào tầng thiền thứ tư và thể nhập Niết-bàn. Xin Thầy cho con hỏi, Phật giáo Nam Tông có giảng dạy 4 tầng thiền và phương pháp để đạt đến 4 tầng định này không ạ?
Câu thứ 2 là, mục đích của định là nhờ định phát huy trí tuệ. Như vậy “đạt” trí tuệ để thấy ra mọi sự như nó đang là. Nếu vậy mình có thể chỉ thấy ra sự thật, nhìn thấy mọi thứ như nó đang là mà không cần “hạ thủ công phu”, “trầy vi tróc vảy” để đạt được định?
Con xin đảnh lễ và tri ân những lời dạy của Thầy.
1) Thiền định thì có nhưng có hai loại: Loại phải hành “trầy vi tróc vảy” để tiểu ngã trở thành đại ngã thì cao lắm là đến cõi Sắc giới, Vô sắc giới thôi chứ không thể chứng ngộ Niết-bàn được đâu. Chỉ có định vô vi vô ngã, đồng hành với tuệ, có sẵn nơi chơn tánh, buông hết sở hành, sở đắc của cái “ta” ảo tưởng, mới là tịch tịnh Niết- bàn. Cứ mãi sinh, hữu, tác, thành mà đòi đạt “không sinh, không hữu, không tác, không thành” mới lạ!!!
2) Định hữu vi hữu ngã thường chỉ trở ngại cho tuệ, định vô vi vô ngã thì không bao giờ tách rời tuệ được. Điều này ít ai biết nên họ cứ cố “hạ thủ công phu” cho “trầy vi tróc vảy” với ý đồ “hữu, tướng, tác, cầu” mong đạt được định, đạt được thần thông để rồi như Devadatta dùng thần thần thông quảng đại mà hại Phật để phải đoạ vào địa ngục A-tỳ!!! Chung quy cũng chỉ là cái ngã tham lam muốn thể hiện một Niết-bàn ảo tưởng!!!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Bạch Thầy,
Sau khi nghe Pháp thầy con hiểu hơn về bản ngã do tham sân si sai khiến, điều đó đã giúp con có thái độ tâm tích cực hơn trong cuộc sống. Nhưng trong quá trình thực hành con thường gặp khó khăn ở chỗ nếu con chú tâm thì nghĩ là theo bản ngã, nếu để bình thường thì dễ rơi vào buông lung phong dật. Tâm con vọng động thất niệm và vọng niệm hoài.
Kính mong thầy chỉ dạy cho con. Con thành kính tri ân thầy!
Như vậy là con đã thấy rồi đó. Thận trọng, chú tâm, quan sát là những yếu tố tự nhiên sẵn có trong con. Khi bỗng nhiên nghe tiếng gõ cửa con liền ứng ra sự thận trọng chú tâm quan sát một cách tự nhiên và ra mở cửa thì không có bản ngã, nhưng khi con đang sợ hãi, lo lắng thì sự thận trọng chú tâm quan sát sẽ có bản ngã xen vào. Vậy con chỉ cần thấy đâu là bản ngã, đâu không bản ngã là được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con thành kính đảnh lễ thầy.
Thưa thầy, khi hữu sự và vô sự mà tâm bị cái ta che lấp và phản ứng một cách vô thức bởi những quan điểm, quan niệm quen thuộc dẫn đến mất thăng bằng thì tánh biết tự nhiên ứng ra một lực chiếu phá, nhờ vậy mà thấy ra cái ta thói quen phản ứng như lập trình rồi nhanh chóng lặn mất và tâm trở về tình trạng bình thường nhanh chóng.
Thưa thầy, thầy có thể mở ra thêm cho con được không?
Con thành kính tri ân thầy. Con chúc thầy luôn mạnh khỏe.
Đúng vậy, bản ngã nương tướng biết mà hình thành và phát triển tư tưởng, quan niệm và thói quen huân tập nhưng khi được tánh biết soi sáng thì bản ngã biến mất trả lại cho tướng biết chức năng tướng dụng bình thường của nó, không còn bị lệch lạc bởi tư tưởng, quan niệm và thói quen huân tập nữa. Tuy nhiên cũng chính nhờ cái ngã ảo tưởng đó mà có sự ham muốn tìm tòi khám phá, qua đó giúp tướng biết phát triển hậu đắc trí, và nhờ hậu đắc trí hoàn mãn, Phật mới có danh hiệu Lokavidū (Thế gian giải) thông suốt tam giới.