Con thành kính đảnh lễ Thầy. Kính bạch Thầy,
Mỗi lần đọc kệ của Thầy, con nghe tâm con trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, mát mẻ, trong sáng một cách lạ lùng.
Sáng nay được đọc bài thơ “Xuất Gia, Xuất Giá” Thầy trả lời cho một bạn Đạo, con thiệt thấm lắm, nhưng trong 2 câu Kệ: “Đừng chờ nhập thế mới công phu” và “Giác liền ngay đó độ Xuân Thu” con không hiểu rõ nghĩa của chữ “nhập thế” và “độ Xuân Thu”, con thỉnh Thầy giải thích cho con, con cám ơn Thầy.
Con xin được chép lại bài Kệ dưới đây:
Xuất gia, xuất giá cũng đều tu
Không tùy thuận pháp khác chi mù
Chớ đợi xuất gia rồi hạ thủ
Đừng chờ nhập thế mới công phu!
Hiện tại chẳng am tường thật giả
Tương lai sao thấy rõ cương nhu
Đâu đâu cũng chỉ thân tâm cảnh
Giác liền ngay đó độ Xuân Thu.
Con thành kính đảnh lễ Thầy.
Xem câu trả lời
Có người chủ trương xuất gia mới tu hành (hạ thủ công phu) được, ngược lại có người lại chủ trương nhập thế tức vào đời để trải nghiệm mới tu hành được. Nhưng tốt nhất là cứ ngay nơi thực tại thân tâm mà khám phá chinh mình và cuộc sống mới có thể giác ngộ giải thoát. Độ là đưa qua bờ bên kia, nên 10 ba-la-mật gọi là thập độ. Xuân Thu tượng trưng cho cuộc đời, thế gian hay căn-trần-thức. Độ Xuân Thu chính là sống tuỳ duyên thuận pháp, tự giác giác tha, vượt qua sinh tử.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thầy kính mến! Con có chút điều muốn hỏi thầy ạ.
Một thời gian thực hành Pháp với nguyên lý của thầy, con học hỏi từ cuộc sống, mọi thứ diễn ra quanh mình, hiểu rõ mình và mọi người xung quanh hơn, cuộc sống vốn thay đổi và nhiều đổi thay, chẳng thể đem một phương pháp cụ thể nào mà để áp dụng khuôn mẫu khô cằn, mà chỉ có thể xem nó như một bài học qua đó thầy dậy con điều chỉnh nhận thức và hành vi. Mỗi việc xảy ra, mỗi khó khăn con cảm thấy như đang dạy con, giúp con hiểu rõ cuộc sống, biết cảm thông và trưởng thành hơn.
Khi rảnh rỗi con ngồi thư giãn và thấy thật nhẹ nhàng, tâm con yên lặng mà không cố gắng gì cả. Có lần con đi bộ, cảm giác khi không có cái tôi thật lạ thầy ạ, nó đẹp mà thụ động. Nhiều người bạn đạo quanh con, hay tham gia các khóa thiền rồi nói về các tầng thiền, nhưng con mỗi khi ngồi thiền con thấy ngại làm sao ấy, vì thấy con cứ tìm kiếm điều gì mà mình chưa biết, con thấy khi chưa hiểu rõ chính mình để tự điều chỉnh nhận thức và hành vi, mà cứ đi tìm cái gì chưa biết, có lẽ như thầy nói, gỡ chỉ rối mà không biết mối gỡ ở đâu vậy. Con chỉ có thắc mắc, liệu các bậc Thánh ngày xưa thành đạo cũng qua tu tập, rèn luyện vậy sao, nhiều Ngài chỉ nghe một bài Pháp rồi ngộ, vậy phải chăng có một sự thay đổi trực tiếp lên tâm của các vị ấy ạ? Hay là các vị đã trải qua nhiều ba-la-mật, điều chỉnh nhận thức và hành vi qua nhiều kiếp sống, đến lúc đó như nhân duyên đủ và giác ngộ ạ. Con cảm ơn thầy nhiều lắm ạ!
Xem câu trả lời
Thật là chính xác, con đã thấy ra vấn đề và và đã biết sống tùy duyên thuận pháp. Bậc Thánh Alahán không phải là kết quả của một chuỗi nỗ lực của sinh, hữu, tác, thành, mà chính là buông hết mọi ý chí rèn luyện để trở thành và ngay đó trở về sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha, các ngài không còn sinh khởi ý đồ nào nữa (không sinh), không còn ý chí bảo tồn sự hiện hữu của cái ngã (không hữu), không còn nỗ lực tạo tác nhân hữu vi (không tác) và không còn chỗ hướng vọng để đạt thành (không thành). Khi con hiểu đúng nguyên lý này thì con đang đi đúng con đường mà đức Phật và chư Thánh đã đi. Sādhu chúc mừng con!
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa Thầy,
con xin cám ơn Thầy đã trả lời câu hỏi cho con.
Ngoài ra trong đời sống hàng ngày con nhận thấy có những tình huống lạ, có những người con đối xử tốt với họ từ đầu đến cuối, còn họ thì không tốt với con từ đầu đến cuối. Đôi khi con cũng nản lòng không muốn giao lưu nữa, nhưng họ lại xin lỗi, và con lại tha thứ và tiếp tục giúp họ, nhưng rồi họ lại hại con như những lần trước, bỏ thì không được, tiếp tục thì nó cứ vậy hoài. Cuối cùng con cũng không biết phải làm sao. Ý con nói là con có thể hỏi Thầy những câu như vậy được không?
Xem câu trả lời
Gặp người như vậy mới giúp con có thể làm ơn mà không cầu đền đáp. Chúng ta thường giúp những người mình thích hoặc có lợi cho mình, và không giúp những người mình ghét và bất lợi cho mình. Để có thể mở lòng ra thì phải gặp người như vậy mới có cơ hội thực tập hạnh bố thí bất nghịch ý. Nên xem người đối nghịch như bạn đạo thì mới thực hiện ba-la-mật được.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa thầy,
Con xin thành kính tri ân lời khai thị của thầy. Thưa thầy, con thấy tư tưởng quả là rất xảo quyệt, cứ luôn luôn giăng bẫy mà chỉ cần thiếu chánh niệm một chút thôi là sập bẫy ngay lập tức. Con thấy từ bản thân con ngoài chấp có, chấp không ra, còn cả chấp vào cái “không chấp” nữa. Về hoàn cảnh sống của bản thân, con nay đã không còn ý đối kháng và lý tưởng hóa nó theo một hình mẫu trong tư tưởng rồi lăng xăng tạo tác để phải thấy mình khổ hơn trong mỗi giây của thực tại nữa. Vì con trân trọng mọi bài học đến với con, con nghĩ điều gì cũng có lý do của nó mà khi con chưa học ra được bài học của mình thì chưa thể khiến cho hoàn cảnh thay đổi được và chưa học ra thì cũng đừng vô ích mà đi tìm hiểu cái lý do tại sao lại phải nó xuất hiện mà không phải là thế này hoặc thế kia. Vì hoàn cảnh bên ngoài chính là sự phản ánh hay tương ưng với trình độ nhận thức tâm linh của con ngay trong hiện tại. Thưa thầy về điều này con nghĩ như vậy có phù hợp với lý nhân quả không ạ?
Cái khổ chính của con là khó chịu với bản thân vì mình hiểu mà không buông được. Con nghĩ con đang rơi vào chấp cái “không chấp” và cho là phải “buông” mới an lạc được. Ví dụ như khi con đọc kinh, sách hoặc nghe lời quý thầy giảng, con phát hiện ra một điều tâm đắc rồi “thủ” nó luôn, biến nó thành một phương châm sống. Nhưng dù điều con hiểu từ quý thầy có hay cách mấy đi nữa, nó cũng không ở lâu với con. Khi trong sự tập trung hay thanh tịnh con sống được với điều đó nhưng khi cảnh đến, theo tập khí con lại phản ứng. (Đến đây tự nhiên con chợt nhận ra nói cách khác có lẽ con không tìm sự lý tưởng hóa trong đời để thoát ra mà lại tìm trong đạo chăng? Có lẽ tư tưởng con đã hoạt động quá nhiều?)
Thưa thầy, con biết là con vẫn còn chấp lý, kẹt lý chứ chưa sống được. Xin thầy từ bi chỉ giúp con đường vào. (Con nghĩ chắc con gặp thầy chắc thầy hét cho con 1 tiếng hay đánh cho con vài hèo cũng nên, để con bặt luôn cái tư tưởng tìm đường vào này!!!)
Thưa thầy với tình trạng của con bây giờ, con nên phát triễn thiền định để tư tưởng được ổn định hơn (như niệm Phật hay ngồi thiền) hay chấp nhận những mâu thuẫn này, chịu điên với nó một thời gian rồi mới học được cách buông thực sự ạ? (Trước đây con có niệm Phật nhưng dần dần con thấy đó là sự đè nén và gia tăng căng thẳng khi sức đè nén yếu đi). Thưa thầy, có phải khi tư tưởng bị đẩy lên đến mức đỉnh điểm của sự tạo tác mà vẫn thấy là nó bất lực trên con đường giải thoát thì nó mới chịu im bặt và thôi bép xép không ạ?
Xem câu trả lời
Về mặt lý thì con nói đều đúng, và ngay cả cái sai vi tế nhất con cũng thấy ra ngay khi đang nói, nhưng đó vẫn là cái bén nhạy của lý trí, mà còn lý trí thì vẫn còn phân vân! Lý trí có thể đạt được “giải ngộ” tức là thuyết thông nhưng tâm chưa thông, hay nói cách khác là chưa “chứng ngộ” nghĩa là hiểu nhưng chưa thấy, do đó vẫn còn mong muốn được “vào”. Con cũng thấy luôn là không thể thiền định, niệm Phật hay trì chú gì để “vào” được, vì như thế vẫn là tạo tác để trở thành, dù tạo tác đó là nghiệp thiện. Từ đó con biết là phải “buông”, nhưng con lại chưa biết buông thật sự là thế nào. Có lẽ con nên xem cuốn Sống Trong Thực Tại, nhất là chương cuối thầy trình bày 10 phương diện buông ba-la-mật, rồi sau đó con hỏi tiếp nhe.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Con xin cúi đầu đảnh lể Thầy,
Con có duyên được biết bài Kinh Bát Nhã từ lúc nhỏ khi nghe Mẹ con tụng hằng ngày. Lớn lên qua tìm hiểu thì con được biết bài Kinh lưu truyền ở VN do ngài Huyền Trang dịch năm 649 C.N. Sau một thời gian thì con khám phá ra rằng tụng đọc kinh là để qua đó thông suốt ý nghĩa lời Phật dạy mà thể hiện trong cuộc sống hằng ngày. Cho nên con mong Thầy chỉ rõ những nhận thức sai lầm qua cái hiểu biết của con. Con cứ lưỡng lự không muốn gửi lá thư này vì sợ làm mất thời gian của Thầy, mặt khác con nghĩ là nếu Thầy còn đây mình không hỏi thì còn đợi đến lúc nào nữa. Con xin bày tỏ lòng biết ơn & kính chúc sức khỏe Thầy.
Quán (= quan sát với tâm rỗng lặng trong sáng); Tự Tại (= ngay nơi chính mình) Bồ Tát (người thấy Pháp, và sống thuận Pháp – Chân Lý, Cái Thật); hành thâm bát-nhã ba-la-mật-đa (= sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha đúng Đạo Đế: Giới Định Tuệ, Bát Chánh Đạo, 10 ba-la-mật…); chiếu kiến ngũ uẩn (= Tập Đế), giai không (= Diệt Đế) độ nhất thiết khổ ách (= Khổ Đế). Bài pháp đầu tiên về Tứ Diệu Đế.
Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị (= ngũ uẩn bị chi phối bởi luật vô thường, sinh diệt, do nhân duyên kết hợp… nên có mà không không mà có nhưng tánh biết thì luôn sẵn có mọi lúc mọi nơi, không sinh không diệt)vì vậy:
Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức. Vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới. (= các pháp vốn tự nó đã thanh tịnh nên khi tâm thanh tịnh thì thấy các pháp cũng thanh tịnh). Bài pháp thứ nhì về Vô Ngã tướng.
Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo. (= Trong thực chứng vô ngã thì không có vô minh, không có vô minh thì không có 12 nhân duyên = không có 4 Diệu đế).
Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố Bồ đề tát đõa y Bát nhã Ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn. (= thông suốt các pháp vô thường – vô ngã – niết bàn nên vô thủ trước niết bàn)
Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư (= Chư Phật ba đời nương theo 10 ba-la-mật thành tựu Chánh Đẳng Giác là điều chân thật)
Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: “Gate Gate Paragate Parasamgate Bodhi Svaha”
(Buông, buông, buông bản ngã, thấy ra Pháp, Chân Lý, Cái Thật… như nó đang là ở ngay trước mắt…)
Co hiểu như vậy là tốt lắm, và chủ yếu là sống được như vậy thì thật tuyệt. Thầy cũng có giảng bài kinh này trong chương cuối cuốn Thực Tại Hiện Tiền, con có thể vào đọc thêm theo địa chỉ dưới đây:
Kính thưa Thầy, trong quyển ‘Thiền Phật giáo Nguyên Thuỷ và Phát triển’ ở phần đầu Thầy viết về thiền định, phần sau là thiền tuệ. Phần thiền tuệ thì con biết cách ứng dụng bằng tánh biết để tu như lời Thầy dạy, nhưng phần thiền định thì con chưa biết ứng dụng làm sao, vì nếu con dùng để mục để quán thì trong con đã xác định mục đích như là đạt được quang tướng, tứ thiền bát định rồi. Có phải phần thiền định chỉ dùng cho những ai còn nhiều tham muốn tu tập tạm thời để dễ đoạn trừ như dùng đề mục quán tử thi, sau đó phải chuyển qua tu tập thiền tuệ đúng hướng phát triển tự nhiên phải không Thầy? Hay là trong Phật giáo tuy liệt kê ra thiền định và tuệ nhưng cách ứng dụng tu tập vẫn là thiền tuệ phát triển chánh định tự nhiên. Vì con muốn dùng pháp quán 32 thể trược thuộc thiền định nhưng lại băn khoăn là quán như vậy thì trái với cách tu trong sáng, định tĩnh, trong lành rồi. Kính mong Thầy chỉ dạy cho con.
Tuy là nói thiền tuệ để phân biệt với thiền định ngoài đạo Phật, nhưng thực ra trong thiền tuệ đã có chánh định rồi. Nếu con tu đúng thiền tuệ thì giới định tuệ đều được phát huy viên mãn. Những người ngoại đạo trước đây đã có tu tứ thiền bát định khi theo Phật thì họ vẫn được giữ các mức định này nhưng không được đắm chìm trong hỷ lạc và các loại thần lực. Chính thiền tuệ giúp họ chuyển hóa các định đó thành chánh định trong giới định tuệ, vì có chánh định thì có trí tuệ, còn tứ thiền bát định vẫn còn trong vô minh ái dục nên thường chỉ cản trở trí tuệ mà thôi. Vì vậy chấp định, chấp không thì vẫn còn nương tựa (nissita), còn bám víu (upadāna) vào sinh, hữu, tác, thành không phải là con đường xả ly, ly tham, đoạn diệt trong không, vô tướng, vô tác, vô cầu.
Đức Phật dạy tâm vốn rỗng lặng trong sáng (pabhassara citta), còn các phiền não tham sân si chỉ là khách vãng lai (āgantuka). Thầy phát hiện tâm rỗng lặng trong sáng ấy vốn tự có 3 yếu tố là sáng suốt, định tĩnh, trong lành. Sáng suốt là tuệ, định tĩnh là định, trong lành là giới, nên có thể gọi đó là giới định tuệ tự tánh, vốn vô ngã tức không sinh, không hữu, không tác, không thành. Nên nếu biết buông xả (10 pháp ba-la-mật đều là buông xả), bớt tích lũy, thì khách phiền não (āgantuka) sẽ không lui tới và thân tự giới, tâm tự định, tuệ tự chiếu. Nếu tâm thường buông lung, thất niệm, mất tỉnh giác, ngay đó chỉ cần trở về (tinh tấn) trọn vẹn (chánh niệm) trong sáng (tỉnh giác) với thực tại thân-tâm-cảnh thì liền phục hồi tự tánh giới định tuệ. Hoặc thận trọng, chú tâm, quan sát để tâm bớt phan duyên theo ngoại cảnh. Đó là cách tu phát huy giới định tuệ tự nhiên nhất đúng như tâm nguyện của con mà không cần đi theo con đường tứ thiền bát định, mất thì giờ vô ích.
Còn nếu con muốn quán 32 thể trược là pháp đối trị lòng tham ái nơi cái gọi là “thân này của tôi” hay “thân kia xinh đẹp” thì cũng tốt, nhưng phải quán trên 32 thể trược thật chứ không tưởng tượng thì cũng chính là thiền tuệ.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính thưa Thầy,
“Đạo Phật là nhất hướng xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, chánh trí, giác ngộ, Niết bàn”. Đây có phải là sự tiến bộ của quá trình tu tập hay là những gì cần làm để giác ngộ giải thoát? Con chưa hiểu lắm về câu này, đặc biệt là đoạn diệt. Kính xin Thầy chỉ dạy. Nếu câu trả lời quá dài thì xin Thầy hoan hỷ giảng trong buổi giảng Thiền ngày Chủ Nhật tại Chùa Bửu Long, để có thể post lên mạng để các Phật tử gần xa cùng học hỏi.
Con xin thành kính tri ân Thầy.
Xem câu trả lời
Toàn bộ giáo pháp đức Phật dạy có thể tóm tắt trong một chữ BUÔNG, đặc biệt điều này biểu hiện rõ nét trong 10 pháp ba-la-mật (từ bố thí đến tâm xả). Điều này thật dễ hiểu khi chúng ta nhận ra rằng tánh biết và pháp vốn hoàn hảo, chỉ do cái ta ảo tưởng tham sân si tạo tác lăng xăng nên đã hình thành vô số những ô nhiễm và trói buộc mà hậu quả là phiền não khổ đau, luân hồi sinh tử. Vì vậy đức Phật định nghĩa Niết-bàn là đoạn tận tham sân si và đó cũng là lý do vì sao Niết-bàn được gọi là Diệt Đế. Vậy thì việc buông mở những chấp thủ, sở hữu, dính mắc; từ bỏ tham ái (tham sân si), và đoạn diệt tập đế, khổ đế chính là trở về tự tánh an tịnh, trong sáng sáng tức chánh trí giác ngộ Niết-bàn.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Kính lễ Thầy, sau một thời gian quan sát thân tâm, con đã phát hiện ra nhiều thứ về nó. Mới hôm trước con thấy vui vui vì bắt đầu thấy tham ái và sân với cái nhìn trọn vẹn và tự nhiên hơn (giảm bớt sự cố gắng nhìn trong đó), nhưng hôm nay đến công ty thì tâm cứ nhảy loạn xạ, những câu chữ cứ chực trào ra ngoài. Con cứ nhìn mà chẳng biết phải làm sao.
Có một câu hỏi mà con cứ băn khoăn mãi, tự mình suy nghĩ không ra: Đó là một người phải gieo duyên gì mới gặp được Chánh Pháp và nhận được sự khai thị đúng đắn thưa Thầy.
Đức Phật trải qua nhiều kiếp thực hành các ba-la-mật, nhưng con nghĩ không phải ai cũng hiểu hết ý nghĩa của ba-la-mật, và không dễ để trở thành một vị Phật Chánh Đẳng Giác và một vị Độc Giác. Con cũng nghĩ là một người phải trải qua nhiều khổ đau, cái ngã mới bớt dần vọng chấp thì sẽ dần biết buông xả. Nên một số người dù gặp Đức Phật trực tiếp nhưng căn cơ chưa tới thì đành chịu. Nhưng các vị Thầy của Đức Phật, con nghĩ họ là những người có trình độ tâm linh cao, lại chết trước khi Đức Phật chuyển pháp luân và không có cơ hội nghe Pháp. (Mà các vị này đắc thiền cao vậy, sau khi hết tuổi thọ ở các cõi đó, lại có nguy cơ đọa vào các cõi thấp – theo như con đã nghe giảng).
Quan sát thân tâm giúp con bớt khổ đau, nhưng sao mà khó giải thích điều này với những người khác. Con là người ít ganh đua, vậy mà một niệm bất thiện khởi lên, là con thấy nó chi phối suy nghĩ rất dai dẳng, thật kinh khủng. Con chỉ muốn hỏi vậy để nếu con có thể làm được điều gì đó. Xin Thầy từ bi giảng thêm giúp con.
Con xin cám ơn Thầy.
Xem câu trả lời
Phật Pháp ở nơi con, trở về thấy biết chính mình để khám phá ra lẽ thật thì không những là cách gieo duyên tốt nhất với Phật Pháp mà còn tự mình thấy ra Chánh Pháp. Nếu con còn nghi ngờ điều này thì con vẫn còn tìm kiếm chân lý ở bên ngoài, mà khi còn vọng tưởng thì bên ngoài chỉ là phản ánh vọng tưởng của con mà thôi. Khi nào trong con đã thấy ra Phật Pháp thì con mới thấy bên ngoài cũng đều là Phật Pháp, bằng không dù con có học thuộc trăm kinh, ngàn sách thì cũng chỉ là vọng tưởng mà thôi. Tâm con thế nào con chỉ nên thấy nó như vậy, đừng tìm cách lý giải vì mọi lý giải của lý trí đều là vọng. Các vị thầy của Bồ-tát, trước khi Ngài đại ngộ, tuy trình độ cao nhưng cao theo sự phát triển cái “bản ngã chứng đắc” chứ không cao theo trình độ xả ly bản ngã của ba-la-mật vì vậy vẫn còn tà kiến và tham ái, do đó vẫn còn sinh tử luân hồi trong Tam giới, nghĩa là vẫn còn bị sa đoạ vì tà kiến và tham ái ấy.
Ngày gửi:
Câu hỏi:
Thưa thầy cho con hỏi, sau khi mình làm việc thiện nào đó thì mình có nên nguyện là mong cho những phước lành mà con đã tạo giúp hoàn thành đạo quả của mình không? Vì nếu con không nguyện gì thì việc thiện đó không phải là ba-la-mật. Nhưng nếu con nguyện thì không phải là vô ngã vị tha, không sống trong hiện tại mà lại mong ước tương lai, làm việc tốt chỉ vì mong được thành tựu đạo quả. Mong thầy hoan hỷ chỉ dạy những sai sót trong suy nghĩ của con.
Con cảm ơn thầy ạ.
Con nên phân biệt một chút về cầu và nguyện. Cầu là mong muốn đạt được một điều gì đó, thường xuất phát từ lòng tham (muốn có) hay sân (muốn không). Còn nguyện là phát tâm đúng hướng cũng để hoàn thành một điều gì, như con nguyện, những phước lành con tạo đều hướng đến sự xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, chánh trí, giác ngộ Niết-bàn. Nếu tâm nguyện như vậy thì đó là nguyện lực ba-la-mật và cũng là vô ngã vị tha, chứ không phải là mong ước tương lai như con nói.